Nửa thế kỉ phát triển văn xuôi các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam (Từ 1960 đến nay)

TÓM TẮT

Một chặng đường năm mươi năm, một nửa thế kỷ hình thành và phát triển, cho đến nay, văn xuôi

miền núi phía Bắc Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể: ngoài sự hoàn chỉnh về thể

loại, số lượng các tác giả, tác phẩm không ngừng được tăng nhanh thì chất lượng nghệ thuật của

văn xuôi cũng ngày một nâng cao, tính truyền thống và hiện đại được thể hiện đại sâu sắc hơn, chủ

đề, đề tài cũng được mở rộng và phong phú hơn rất nhiều.

pdf5 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 314 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Nửa thế kỉ phát triển văn xuôi các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam (Từ 1960 đến nay), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
hị Cành - 
hai, Cao Duy Sơn - hai, Vương Trung - một 
[2]. Về ký, có Số phận đàn bà của Hoàng Thị 
Cành, bút ký Cao nguyên trắng của Mã A 
Lềnh, Gió Mù Căng của Hà Lâm Kỳ 
Đề tài, chủ đề được mở rộng và phong phú 
hơn. Vi Hồng với Người trong ống, Gã ngược 
đời (1990) đã đề cập đến vai trò của người trí 
thức dân tộc trong các nhà trường đại học; 
Hoàng Thị Cành với Số phận đàn bà (1990) 
lại phản ánh số phận không may mắn của 
những người phụ nữ miền núi. Đặc biệt, tiểu 
thuyết Người lang thang (1992) của Cao Duy 
Sơn đã đạt đến độ “chín” khi tạo cho nhân vật 
của mình những cá tính riêng đặc sắc trong 
cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu. 
Có thể nói, những thành tựu mà văn xuôi giai 
đoạn này đạt được xứng đáng được xếp vào 
hàng ngũ những thành tựu chung của văn học 
Việt Nam hiện đại. 
Cao Thị Thu Hoài Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 9 - 13 
11 
CON NGƯỜI VÀ CUỘC SỐNG NGƯỜI 
MIỀN NÚI TRONG VĂN XUÔI CÁC DÂN 
TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT 
NAM QUA NỬA THẾ KỈ PHÁT TRIỂN 
Hiện thực cuộc sống đồng bào dân tộc 
trong thực tiễn lớn của đất nước và trong 
những sinh hoạt đời thường 
Nếu như thơ các dân tộc thiểu số phản ánh cả 
một thời kỳ kháng chiến chống Pháp thì văn 
xuôi lại chủ yếu phản ánh cuộc kháng chiến 
chống Mỹ. Rất ít tác phẩm viết về thời kỳ 
kháng chiến chống Pháp. Nguyên nhân chính 
là do hầu hết các tác phẩm được ra đời trong 
thời kỳ chống Mỹ và luôn bám sát mục tiêu 
phục vụ những chủ trương, chính sách của 
Đảng và Nhà nước trong giai đoạn này. Tiêu 
biểu như Đoạn đường ngoặt (Nông Viết 
Toại), Trận địa giữa ruộng bậc thang, Mẹ con 
chị Nải (Nông Minh Châu) Những tác 
phẩm này đã thể hiện rõ tình yêu quê hương, 
lòng căm thù giặc sâu sắc của đồng bào dân 
tộc trong kháng chiến. 
Bên cạnh đó, một mảng đề tài khác cũng 
được các nhà văn tập trung phản ánh - công 
cuộc xây dựng cuộc sống trong hòa bình của 
nhân dân các dân tộc thiểu số. Đó là những 
truyện viết về nông thôn đổi mới (Cao nguyên 
trắng - Mã A Lềnh), vấn đề định canh định cư 
(Đêm mùa Hạ - Hoàng Minh Tường...), xây 
dựng thủy điện (Sông gọi - Hoàng Hạc), vào 
ra hợp tác xã (Sạn, Gánh nước cuối cùng - 
Nông Viết Toại) hay phê phán những tệ nạn 
xã hội như mê tín dị đoan, lừa bịp (Thầy ma, 
Kỷ - Nông Viết Toại) 
Ngoài mảng đề tài chiến tranh và xây dựng 
chủ nghĩa xã hội, văn xuôi các dân tộc thiểu 
số miền núi phía Bắc còn ghi lại cuộc sống 
của đồng bào trong những sinh hoạt đời 
thường, với những phong tục tập quán, tình 
cảm quê hương hay tình yêu đôi lứa. Rất 
nhiều phong tục, tập quán được miêu tả cụ thể 
như tập tục ở rể trong Mây tan (Triều Ân): 
anh Pjao vì yêu Chẹ Tàn mà phải ở rể ba năm. 
Đây cũng là những tháng ngày vất vả và tủi 
nhục đối với anh [3]. Trong Mùa săn (La 
Quán Niệm), tác giả hồi tưởng lại những 
phong tục tập quán, nếp sống, tình cảm, mơ 
ước của đồng bào Thái ở miền tây Nghệ An 
trong những năm sáu mươi của thế kỷ XX. 
Trong truyện ngắn Nông Viết Toại, ta bắt gặp 
những hình ảnh quen thuộc, những cảnh sinh 
hoạt gần gũi của người dân tộc: tục ma chay 
trong Hăn Phi, tục “đi sứ” cho con trẻ trong 
Cái Pử. 
Con người công dân - hình ảnh con người 
mới trong văn xuôi dân tộc thiểu số 
Đây là những con người sống trong tập thể vì 
một mục tiêu chung nhất: chiến đấu, sản xuất 
vì quê hương, đất nước. Họ hòa lợi ích của 
bản thân trong lợi ích của cả cộng đồng, cả 
dân tộc. Trong quan hệ với làng bản, với đồng 
bào, đồng đội, họ là những con người công 
dân thực sự: một thanh niên hăng say tham 
gia cách mạng (Lưu trong đoạn đường 
ngoặt), những chị dân quân quyết tâm bám 
đường cho giao thông thông suốt dưới mưa 
bom bão đạn của kẻ thù (Những cô gái đảm 
bảo cầu đường- Nông Minh Châu), những 
anh vệ quốc quân, những cô gái đảm đang 
trong sản xuất, chung thuỷ chờ chồng (Tam, 
Slao, Cốc, Bèn  trong Núi cỏ yêu thương)  
Thay vì ngập lặn trong bóng tối, họ kề vai 
nhau cùng bước ra trước ánh sáng của Đảng, 
của Bác Hồ. 
Bên cạnh hình ảnh con người công dân của 
quê hương, đất nước, rất nhiều nhân vật còn 
được xây dựng chân dung ở khía cạnh đời tư. 
Con người đời tư bị chi phối bởi con người 
công dân, được miêu tả từ góc nhìn cộng 
đồng. Họ cũng có những tình cảm yêu 
thương, hờn giận, cũng có lúc toan tính hay 
dao động. Bản chất và tính cách của người 
miền núi đều được các tác giả phản ánh cụ thể 
qua từng trang viết, trong các mối quan hệ cá 
nhân - cá nhân, cá nhân - gia đình, làng bản 
(Gió xoáy - Đoàn Ngọc Minh, Một chuyện ở 
chân núi Hồng Ngài - Sa Phong Ba ). 
BẢN SẮC RIÊNG TRONG HÌNH THỨC 
VÀ NGÔN NGỮ TỰ SỰ 
Nghệ thuật xây dựng nhân vật 
Cũng như các nhà văn người Kinh, các tác giả 
người dân tộc thiểu số đã xây dựng chân dung 
nhân vật của mình ở hai phương diện: ngoại 
hình và tính cách. Các nhân vật chính thường 
có ngoại hình đẹp đẽ và nhân cách cao quý, 
còn nhân vật phản diện thì ngược lại. Các nhân 
vật cũng có tâm trạng và được đặt trong mối 
quan hệ xã hội - gia đình, quan hệ địch - ta, 
Cao Thị Thu Hoài Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 9 - 13 
12 
bạn bè, quan hệ vợ chồng, anh em. Tuy nhiên, 
những quan hệ đó thường xảy ra ở một không 
gian nhỏ: một làng, một xã hoặc một huyện. 
Bên cạnh đó, các nhà văn thiểu số miền núi 
phía Bắc còn có sự hiểu biết sâu sắc về dân 
tộc mình nên khi xây dựng nhân vật, tác giả 
thường lấy nguyên mẫu ngoài đời làm đối 
tượng phản ánh. Ví dụ nhân vật Đàng trong 
Vãi Đàng của Vi Hồng có nguyên mẫu thật 
ngoài đời. Xây dựng nhân vật này, Vi Hồng 
đã lần đầu tiên đưa hình ảnh người phụ nữ 
dân tộc thiểu số vào văn học Việt Nam hiện 
đại. Một số nhà văn cũng chú ý khai thác 
nhân vật từ nhiều góc độ, bằng nhiều thủ pháp 
nghệ thuật, từ độc thoại nội tâm tới miêu tả 
trần thuật, giữa miêu tả trần thuật với lời nói 
của nhân vật. Ngoại hình nhân vật thường 
được tập trung miêu tả nhiều hơn với thủ 
pháp so sánh, tượng trưng, ước lệ. 
Ngôn ngữ tự sự 
* Ngôn ngữ giàu tính tạo hình 
Trong văn xuôi các dân tộc thiểu số miền núi 
phía Bắc, hình ảnh về thiên nhiên luôn chiếm 
vị trí quan trọng. Các nhà văn thường dùng 
thiên nhiên để phản ánh tâm trạng nhân vật 
hay lấy đó làm điểm nhấn cho tác phẩm. Tác 
giả coi thiên nhiên như một sinh thể sống, 
chia sẻ vui buồn và tác động đến con người. 
Bởi vậy, ngôn ngữ dùng để miêu tả thiên 
nhiên thường được chú trọng nhiều hơn cả. 
Đó là thứ ngôn ngữ đẹp, trong sáng, thuần 
khiết. Do đó, thiên nhiên trong văn xuôi của 
các nhà văn miền núi thường đẹp, giàu tính 
tạo hình hơn so với thiên nhiên của các nhà 
văn người Kinh. Ví dụ: thiên nhiên trong 
truyện Một chuyện ở chân núi Hồng Ngài (Sa 
Phong Ba) hiện lên thật thơ mộng “đêm chân 
núi Hồng Ngài mù sương. Những khu vườn 
nhãn, xoài, mơ, mận của bản Pè bọc quanh 
chân núi đang chìm vào màn sương đêm” (tr 
25). Hay hình ảnh trăng trong tác phẩm của 
Nông Minh Châu “Chị Hằng nhô hẳn mặt ra 
khỏi chiếu bài xanh, hình như đang tủm tỉm 
cười”, thiên nhiên trong truyện của Nông Viết 
Toại lại mang vẻ đẹp tiềm ẩn của con người 
“sương mù tháng chạp chưa tan hết nhưng 
nắng tháng giêng đã tỏa ra ấm áp rạng rỡ”. 
Với cách cảm thụ thiên nhiên khác nhau cùng 
ngôn ngữ đầy chất thơ trong cách miêu tả, các 
tác giả đã đem đến cho người đọc một cái 
nhìn mới mẻ và chân thực về bức tranh miền 
núi trữ tình hùng vĩ. 
* Các biện pháp nghệ thuật với nhiều nét đặc 
sắc và riêng biệt 
Thứ nhất là lối ví von, so sánh. Điều này phản 
ánh rõ sự ảnh hưởng của văn học dân gian tới 
văn xuôi các dân tộc thiểu số. Với việc sử 
dụng cách nói bóng bẩy, giàu hình ảnh như 
lối nói của dân ca và lối nói khúc chiết của 
tục ngữ, thành ngữ đã giúp người đọc phần 
nào cảm nhận được nét đẹp của con người và 
cuộc sống miền núi. 
Thứ hai là nhân cách hóa các sự vật, hiện 
tượng - một lối tư duy mang đặc điểm của 
người dân tộc. 
Biện pháp nghệ thuật thứ ba được sử dụng là 
mỹ lệ hóa. Những hình ảnh về thiên nhiên, 
con người, cuộc sống trong các tác phẩm văn 
xuôi miền núi được nâng lên với vẻ đẹp lý 
tưởng hóa. Thông qua hệ thống ngôn ngữ đã 
được cường điệu và phóng đại, nhiều tác 
phẩm văn xuôi đã tạo được dấu ấn riêng. Tuy 
nhiên, nhiều khi các tác giả lại sử dụng cách 
nói này quá nhiều khiến tác phẩm có phần 
nặng nề và thiếu sự lôi cuốn. 
KẾT LUẬN 
Với những thành tựu đạt được trong giai đoạn 
từ 1960 đến nay, văn xuôi các dân tộc thiểu 
số miền núi phía Bắc đã đóng góp vào sự 
hoàn chỉnh thể loại của nền văn học các dân 
tộc thiểu số nói riêng và văn học Việt Nam 
hiện đại nói chung. Bên cạnh nội dung phản 
ánh cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước 
của nhân dân các dân tộc thiểu số, các tác 
phẩm còn là bức tranh sinh động về cuộc 
sống và con người miền núi trong sinh họat 
đời thường với những phong tục, tập quán 
hay những mối quan hệ với quê hương, làng 
bản. Văn xuôi các dân tộc miền núi phía Bắc 
và triển vọng phát triển của nó trong thời gian 
tới: tiềm năng và sức bật trong mười năm qua 
cùng những điều kiện thuận lợi trong sự phát 
triển chung của văn học cả nước. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc thiểu 
số Việt Nam hiện đại, Nxb VHDT, tr 95. 
[2]. Lâm Tiến (2002), Văn học và miền núi, Nxb 
VHDT. 
[3]. Nhiều tác giả (2002), Văn xuôi dân tộc và 
miền núi, Nxb VHDT. 
Cao Thị Thu Hoài Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 9 - 13 
13 
SUMMARY 
THE HALF CENTURY OF PROSE DEVELOPMENT OF THE ETHIC 
MINORITIES IN THE MOUTAINOUS NORTHERN OF VIET NAM (FROM 
1960 TO PRESENT) 
Cao Thi Thu Hoai 
College of Education - TNU 
Novels of mountainous Nostrum VN have achieved many successes since the 50 years of 
establishment and development: besides the completeness in genres, authors, works have been 
increasing and quality of these words has been in proving, the traditional and modern features have 
been represented profoundly, also themes and topics are much more various. 
Keywords: Novels, mountainous, genres, traditional, modern 

File đính kèm:

  • pdfnua_the_ki_phat_trien_van_xuoi_cac_dan_toc_thieu_so_mien_nui.pdf