Những biến động trong ngành khai mỏ dưới triều Nguyễn giai đoạn từ năm 1802 đến năm 1858
Tóm tắt. Nhà Nguyễn là một trong những triều đại tồn tại lâu dài trong lịch sử chế độ
phong kiến. Đánh giá về “công” và “tội” của nhà Nguyễn, giới khoa học trong, ngoài nước
có nhiều ý kiến đa chiều. Nhiều nhà nghiên cứu vẫn cho rằng, triều Nguyễn – với những
chính sách “trọng nông”, hạn chế sự phát triển của công, thương nghiệp đã cản trở sự phát
triển nền kinh tế hàng hoá của đất nước, gây ra sự khủng hoảng xã hội trầm trọng, do đó
việc mất nước vào tay thực dân Pháp là tất yếu! Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây đã
đưa ra những căn cứ cho thấy, ngoài các chính sách trọng nông, triều Nguyễn trong giai
đoạn nửa đầu thế kỉ XIX cũng rất quan tâm tới các hoạt động kinh tế khác, trong đó có hoạt
động khai mỏ.
o như tài liệu của Đại Nam hội điển sử lệ thì người lao động trong các trường mỏ giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX được gọi bằng nhiều cách khác nhau như khoáng phu, hoá phu, sa đinh, dân phu, đình phu, dung phu, tượng, công tượng, thổ dân, phu mục, tượng mục, dã tượng. Trong các tên gọi đó thì "dân phu" được dùng nhiều nhất là 49 lần, sau là "hoá phu" 46 lần, "sa đinh" 25 lần, "thổ dân" và "dân" 18 lần, "khoáng phu" 13 lần, tượng" và "công tượng" 9 lần "đinh phu" 6 lần... Qua đó đã phần nào cho thấy sự phổ biến của chế độ lao động làm thuê cũng như phạm vi phân bố, quan hệ bóc lột trong các trường mỏ giai đoạn 1802 - 1858. Trong số các phu mỏ được sử dụng rộng rãi như vậy thì hầu hết nhân công lại là người Hoa kiều và nhân dân thiểu số, rất ít nhân công là người miền xuôi. Cùng lúc đó, do sự khủng hoảng của chế độ phong kiến, hiện tượng bần cùng hoá của nông dân ở đồng bằng xảy ra rất nghiêm trọng. Hiện tượng người dân lưu vong diễn ra trầm trọng không kém gì thời Lê mạt, nhưng cuối cùng thì nó vẫn chưa đủ sức làm "vô sản hoá" họ, biến họ hoàn toàn thành người công nhân làm thuê, dù cho đời sống của họ cùng cực đến mức nào. Sử sách lúc đó không mô tả một cách trực diện đời sống của người phu mỏ cũng như cách thức bóc lột người lao động, song qua mức tiền công hàng tháng mà họ được hưởng đã giúp cho ta hiểu được ở mức độ nhất định. Về cơ bản, do chính sách kiểm soát ngặt nghèo của nhà Nguyễn nên trong các trường mỏ của những thổ tì thiểu số, quan lại địa phương, cuộc sống của người phu mỏ làm thuê vô cùng khổ cực. Duy nhất chỉ có một số nhân công trong trường mỏ do thương nhân người Trung Quốc hay chủ mỏ người Việt lĩnh trưng thì địa vị của họ tương đối tự do và chế độ tiền lương khá hơn một chút. Ở trong các trường mỏ, tiền công hàng ngày của một phu mỏ thường là một tiền 30 đồng đến 3 tiền, cao nhất khoảng 8 - 10 quan tiền và một phương gạo trong một tháng. Riêng ở trường mỏ của Chu Danh vỏ khai thác thì một số phu mỏ có trình độ kĩ thuật cao thì được trả 12 quan một tháng. Cùng lúc đó thì trên thị trường, một tiền đong được 2,2 cân gạo. Như vậy, việc một nhân công làm thuê kiếm được hơn 3 cân gạo một ngày đã phản ánh một mức lương khá ổn định trong bối cảnh kinh tế - xã hội khủng hoảng trầm trọng. Tuy nhiên, thực tế đời sống của người phu mỏ lại vô cùng khốn đốn do chế độ trả công đó chỉ tính trong những ngày họ làm việc, còn những khi thời tiết bất lợi hoặc nghỉ việc thì không được tính công. Không những vậy số tiền công đó chỉ được trả khi mà họ khai thác và nộp đủ số kim loại nhà nước và chủ mỏ yêu cầu. Thông thường thì các yêu cầu thường vượt quá khả năng lao động của người phu mỏ. Đặc biệt trong một số trường hợp, các trường mỏ nếu không nộp đủ số thuế nhà nước yêu cầu thì phải mua quặng để bù vào. Hậu quả của việc khai thác không thuận lợi đó cuối cùng ắt dẫn đến kết quả là làm giảm đi số tiền công của người phu mỏ và họ phải tăng thời gian làm việc để bù vào số lỗ, chữ người chủ mỏ hầu như không chịu thiệt thòi gì. Đoạn tài liệu ghi chép về mỏ kẽm Chi Sơn (Thái Nguyên) đã cho thấy rõ điều đó: "Chiêu mộ dân nghèo sở tại và hoá phu người Thanh được bao nhiêu người, chia ra từng giáp mỗi giáp độ vài chục người, cho người thạo việc là Hoàng Văn 122 Những biến động trong ngành khai mỏ dưới triều Nguyễn giai đoạn từ năm 1802 đến năm 1858 Vinh, Dương Đình Khai, Nguyễn Văn Trí trông nom, tuỳ tiền công hàng tháng cấp trước cho mỗi người 5 quan tiền, giao cho bọn Văn Vinh nhận lãnh rồi theo số quặng cân thu vào mà khấu trừ, hàng tháng khấu trừ hết lại cấp thêm" [7;19-20]. Đó là chưa kể đến những tai nạn lao động, những biến động của thời tiết nơi rừng riêng thiêng nước độc đang đe doạ cuộc sống của họ. Chỉ có những trường mỏ do người Hoa kiều lĩnh trưng thì tiền công của người lao động mới cao hơn. Ngoài ra còn có trường hợp của chủ mỏ người Việt Chu Danh Hổ cũng giống như vậy. Với thân phận tự do hơn sẽ kích thích khả năng, giải phóng sức lao động của người phu mỏ, giúp cho một số trường mỏ của tư nhân ngày càng chiếm ưu thế trong hoạt động khai khoáng. Nói tóm lại, đã là chế độ lao động làm thuê thì số phận của những người nhân công không thể sung túc như những gì họ mong muốn. Tuy nhiên trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XIX lên cơn sốt trầm trọng, khi mà nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là sự du nhập của yếu tố tư bản luôn đặt lợi nhuận lên hàng đầu thì cuộc sống của ngươi phu mỏ càng thêm khốn đốn. Đó cũng là nguyên nhân dọn đường cho những người phu mỏ lao vào vòng xoáy của các phong trào đấu tranh nhằm giải phóng lực lượng mình và hướng tơi một xã hội tốt đẹp hơn xã hội phong kiến 3. Kết luận Qua việc tìm hiểu tình hình khai thác mỏ, chúng ta thấy mặc dù trong bối cảnh khủng hoảng song nền kinh tế hàng hoá nửa đầu thế kỉ XIX vẫn có bước phát triển. Ngành khai mỏ không hoàn toàn đình đốn, ngừng trệ mà vẫn có bước chuyển biến nhất định. Sự phát triển ấy thể hiện qua số lượng các trường mỏ, các loại khoáng sản được khai thác và quy mô sản xuất của các trường mỏ. Phương thức sản xuất trong ngành khai mỏ căn bản vẫn là lối sản xuất thủ công với những hình thức bóc lột mang nặng tính chất nô dịch. Nhưng trong một số trường mỏ do thương nhân Hoa Kiều và một vài chủ mỏ người Việt lĩnh trưng vẫn tiếp tục manh nha những nhân tố mới, thể hiện trong tính chất kinh doanh của người chủ mỏ, trong chế độ thuê mướn nhân công tương đối tự do và trong trình độ tổ chức sản xuất đã đạt đến một trình độ phân công nhất định. Đây là những trường mỏ do tư nhân kinh doanh trong đó đã tập trung một số lao động làm thuê có thân phận tương đối tự do. Quan hệ làm thuê trong các trường mỏ của nhà nước và thổ ti, quan lại căn bản vẫn dựa trên tính chất phong kiến, song cũng đã có nhiều thay đổi về mức độ ràng buộc. Trong một số trường mỏ của thương nhân Hoa kiều và chủ mỏ người Việt kinh doanh thì quan hệ làm thuê tương đối tự do hơn. Năng lực của người phu mỏ sẽ quyết định mức lương mà họ được hưởng. Sự phân công, hợp tác được tổ chức quy củ hơn so với trường mỏ thời Lê mạt. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh chế độ phong kiến đang ngự trị khắp nơi ở nước ta thì những người phu mỏ làm thuê nay tất nhiên không thể thoát khỏi những ràng buộc trong khuôn khổ xã hội mà nó đang sống. Điều đó cho thấy, mặc dù chính sách của triều đình không còn mang tính tích cực như giai đoạn trước, song sự phát triển trong nội tại ngành khai mỏ vẫn tạo điều kiện cho sự hình thành các mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa liên quan đến trình độ kĩ thuật, phương thức khai thác, quan hệ bóc lột đối với phu mỏ. . . Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá vào giai đoạn cuối của chế độ phong kiến và sự nảy sinh những mầm mống tư bản chủ nghĩa dù non yếu cũng nói lên khả năng phát triển độc lập của nền kinh tế nước ta và góp phần bác bỏ luận điểm cho rằng xã hội phong kiến Việt Nam cũng như nhiều nước phương Đông khác là đình đốn, bế tắc và không có lối thoát. Nếu không có cuộc xâm lược và thống trị của thực dân Pháp, có thể nền kinh tế hàng hoá và mầm mống kinh tế tư bản sẽ 123 Nguyễn Thị Thanh Tùng được phát triển khi mà nhận thức của các triều đại cầm quyền có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực, tiến bộ. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] C. Mác, 1960. Tư bản quyển, tập 2. Nxb Sự thật. Hà Nội. [2] Phan Gia Bền, 1958. Sơ thảo lịch sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam. Nxb Văn - Sử - Địa, Hà Nội. [3] Launay Adrien, 1923. Histoire de la mission de Cochinchine 1658-1823. Documents historiques, Paris. [4] Phan Huy Lê, 1990. Về quá trình hình thành dân tộc của Lịch sử Việt Nam. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội. [5] Phan Huy Lê, 1963. Tình hình khai mỏ dưới triều Nguyễn. Tạp chí NCLS, số 52, trang 58 – 62, Hà Nội. [6] Quốc sử quán triều Nguyễn, 1998. Quốc triều chính biên toát yếu. Nxb Thuận Hóa, Huế. [7] Quốc sử quán triều Nguyễn, 1978. Đại Nam thực lục chính biên. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [8] Hoàng Anh Tuấn, 2006. Mậu dịch tơ lụa của Công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng Ngoài 1637-1670. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 359. [9] Hoàng Anh Tuấn, 2007. Hải cảng miến Đông Bắc và hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỉ XVII (qua các nguồn tư liệu phương Tây). Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 1, 2007. [10] Hoàng Anh Tuấn, 2007. Gốm sứ Đàng Ngoài xuất khẩu ra Đông Nam Á thế kỉ XVII - Tư liệu và nhận thức. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 11. [11] Vương Hoàng Tuyên, 1959. Tình hình công thương nghiệp Việt Nam thời Lê mạt. Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội. [12] Tsuboi, 1992. Nước Việt Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa. Hội Sử học Việt Nam, Hà Nội. [13] Trần Thị Vinh, 2007. Nhà nước Lê - Trịnh với kinh tế ngoại thương ở thế kỉ XVI-XVIII. Tạp chí NCLS số 12. [14] Trần Thị Vinh, 2004. Thể chế chính quyền ở Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII). Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 10. ABSTRACT The movement of the mining under the Nguyen dynasty in the period from 1802 to 1858 Nguyen Thi Thanh Tung Faculty of Political Theory, Hanoi University of Education The Nguyen Dynasty is one of the enduring dynasty in the history of feudalism. Regarding evaluation of the "contribution" and "crimes" of the Nguyen Dynasty, the national and international scientific community has had multidimensional points of view. Many researchers still said that the Nguyen Dynasty with the policies of "agricultural appreciation" limited the development of commerce, industry, hampering the evolution of commodity economy of the country, causing the severe social crisis, so the country dominated by the French colonist was inevitable! However, several recent research has given the evidence proving that, in addition to the agricultural appreciation policy, the Nguyen Dynasty was also very interested in handicraft, mining and trade in the first half of the nineteenth century, which was clearly shown in the policies and fluctuations of the mining sector under the Nguyen Dynasty (1802 -1884). Keywords: Nguyen dynasty, the mining, commodity economy, feudal regime, from1802 to 1858. 124
File đính kèm:
- nhung_bien_dong_trong_nganh_khai_mo_duoi_trieu_nguyen_giai_d.pdf