Nghiên cứu ứng dụng mô hình toàn cầu trong dự báo khí hậu hạn mùa cho Việt Nam
Tóm tắt: Bài báo này trình bày một số kết quả bước đầu về việc ứng dụng mô hình khí quyển toàn cầu
bảo giác lập phương CCAM trong dự báo khí hậu hạn mùa cho toàn cầu và khu vực Việt Nam. Kết quả thử
nghiệm dự báo khí hậu hạn mùa giai đoạn 2012-2014 với các điều kiện biên dưới (nhiệt độ bề mặt nước
biển - SST) khác nhau được phân tích và đánh giá: Nguồn SST từ dự báo của mô hình khí hậu toàn cầu CFS
của Mỹ (CCAM_CFS) và SST từ dự báo của Viện Nghiên cứu quốc tế về khí hậu và xã hội - IRI (CCAM_IRI). Kết quả cho thấy, trong cả hai trường hợp CCAM toàn cầu đều đã cho dự báo khá tốt các trường hoàn lưu quy mô lớn khi so sánh với số liệu phân tích CFSnl và số liệu dự báo của CFS. Trên khu vực Việt Nam, nhiệt độ dự báo có xu hướng thấp hơn quan trắc trong hầu hết các tháng, sai số trong các tháng mùa đông lớn hơn các tháng mùa hè, sai số ở phía Bắc lớn hơn phía Nam, sai số trung bình ở hạn 3 tháng trong cả hai trường hợp khoảng 2,5oC, sai số khá ổn định và có tính hệ thống. Lượng mưa dự báo thì biến động nhiều hơn, lượng mưa có xu hướng thấp hơn quan trắc trong các tháng mùa mưa. Sai số tương đối trong các tháng mùa mưa khoảng 35-70 % trên các vùng khí hậu phía Bắc, các vùng phía Nam sai số nhỏ hơn. Về kỹ năng dự báo, CCAM_IRI cho kỹ năng dự báo nhiệt độ tốt hơn CCAM_CFS và kỹ năng ở các hạn giữa tốt hơn các hạn đầu và cuối. Ngược lại, kỹ năng dự báo mưa ở các hạn gần tốt hơn và kỹ năng của CCAM_CFS tốt hơn đáng kể
ách từ điểm mô hình tới điểm quan trắc trên giản đồ. Giản đồ Taylor của dự báo nhiệt độ T2m và lượng mưa tháng của hai trường hợp CCAM, với các hạn dự báo từ 1 đến 6 tháng, cho tất cả các tháng, so với quan trắc tại trạm trên toàn Việt Nam được thể hiện trên Hình 11. Kết quả cho thấy, với nhiệt độ thì kỹ năng dự báo của mô hình trong các hạn là không có sự khác nhau nhiều, tuy nhiên vẫn có thể chỉ ra rằng ở các hạn đầu và cuối cho kỹ năng kém hơn các hạn ở giữa, và CCAM_IRI cho kỹ năng nhỉnh hơn chút ít. Với lượng mưa thì nhận ra ngay là kỹ năng dự báo ở các hạn gần tốt hơn và kỹ năng của CCAM_CFS tốt hơn đáng kể. Kết luận Nhằm hướng tới ứng dụng mô hình toàn cầu trong dự báo khí hậu hạn mùa ở Việt Nam, nghiên cứu này đã thử nghiệm chạy mô hình CCAM toàn cầu với 2 nguồn số liệu SST dự báo khác nhau là CFS và IRI để dự báo toàn cầu các trường hoàn lưu khí quyển mực 850 mb và dự báo về nhiệt độ trung bình tháng và lượng mưa tháng cho khu vực Việt Nam với hạn dự báo đến 6 tháng, giai đoạn 2012- 2014. Mục đích, chỉ ra khả năng ứng dụng của mô hình CCAM toàn cầu, xem xét sự ảnh hưởng của SST đối với kết quả dự báo mùa như thế nào và kỹ năng dự báo của mô hình theo các hạn dự báo. 42 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu Số 4 - 2017 Hình 9. Đồ thị tụ điểm nhiệt độ T2m (oC) dự báo của CCAM_CFS (trên cùng) và CCAM_IRI (dưới cùng) với quan trắc tại trạm theo các hạn dự báo 1, 3 và 6 tháng (thứ tự từ trái qua phải), giai đoạn 2012-2014 trên toàn Việt Nam Hình 10. Tương tự như Hình 9 nhưng cho dự báo lượng mưa (mm/tháng) Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu Số 4 - 2017 43 Một số nhận xét rút ra được từ kết quả nghiên cứu, như sau: 1) Nhìn chung dự báo của CCAM toàn cầu trong cả hai trường hợp đều đã cho kết quả dự báo khá tốt các trường hoàn lưu khí quyển là độ cao địa thế vị và gió mực 850 mb khi so với CFS và CFSnl, dự báo độ cao địa thế vị cho cao hơn ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới. 2) Với nhiệt độ, dự báo có xu hướng thấp hơn quan trắc trong hầu hết các tháng, sai số trong các tháng mùa đông lớn hơn các tháng mùa hè, sai số ở phía Bắc lớn hơn phía Nam, sai số trung bình ở hạn 3 tháng trong cả hai trường hợp khoảng 2,5oC, sai số khá ổn định và có tính hệ thống. Lượng mưa dự báo thì biến động nhiều hơn, lượng mưa có xu hướng thấp Hình 11. Giản đồ Taylor của dự báo CCAM_CFS và CCAM_IRI so với quan trắc của nhiệt độ T2m (oC, bên trái) và lượng mưa (mm/tháng, bên phải), theo 6 hạn dự báo, giai đoạn 2012-2014 hơn quan trắc trong các tháng mùa mưa. Sai số tương đối trong các tháng mùa mưa khoảng 35-70% trên các vùng khí hậu phía Bắc, các vùng phía Nam sai số nhỏ hơn. 3) Về kỹ năng dự báo, CCAM_IRI cho kỹ năng dự báo nhiệt độ tốt hơn CCAM_CFS và kỹ năng ở các hạn giữa tốt hơn các hạn đầu và cuối. Ngược lại, kỹ năng dự báo mưa ở các hạn gần tốt hơn và kỹ năng của CCAM_CFS tốt hơn đáng kể. 4) Mặc dù vẫn còn nhiều vấn đề cần phải xem xét nghiên cứu thêm như lựa chọn các sơ đồ tham số hóa thích hợp cho khu vực Việt Nam, hiệu chỉnh sai số hệ thống của đầu vào (SST dự báo) và đầu ra mô hình, nhưng việc ứng dụng một mô hình toàn cầu như CCAM trong nghiệp vụ dự báo là hướng đi tương tai gần. Tài liệu tham khảo 1. Stockdale, T. N. (2000), An overview of techniques for seasonal forecasting. Stochastic Environmental Research and Risk Assessment, 14, 305-318. 2. Shukla, J., Marx, L., Paolino, D., Straus, D., Anderson, J., Ploshay, J., Baumhefner, D., Tribbia, J., Brankovic, C., Palmer, T. and Chang, Y. (2000), Dynamical seasonal prediction. Bulletin of the American Meteorological Society, 81, 2593-2606. 3. Kim, H. M., Webster, P. J., and Curry, J. A., (2012), Seasonal prediction skill of ECMWF System 4 and NCEP CFSv2 retrospective forecast for the Northern Hemisphere Winter. Climate Dynamics, 39, 2957-2973. 4. Saha, S., Moorthi, S., Wu, X., Wang, J., Nadiga, S., Tripp, P., Behringer, D., Hou, Y.T., Chuang, H.Y., Iredell, M. and Ek, M., (2014), The NCEP climate forecast system version 2. Journal of Climate, 27, 2185-2208. 44 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu Số 4 - 2017 5. Schmidt, F (1977), Variable fine mesh in spectral global model. Beitrage Physical Atmosphere, 50, 211-217. 6. Sadourny, R., (1972), Conservative finite-difference approximations of the primitive equations on quasi-uniform spherical grids. Monthly Weather Review, 100, 136-144. 7. McGregor, J. L., (1993), Economical determination of departure points for semi-Lagrangian models. Monthly Weather Review, 121, 221-230. 8. Rančić, M., Purser, R. J., and Mesinger, F., (1996), A global shallow-water model using an expanded spherical cube: Gnomonic versus conformal coordinates. Quarterly Journal of the Royal Meteorological Society, 122, 959-982. 9. McGregor, J. L., (1996), Semi-Lagrangian advection on conformal-cubic grids. Monthly Weather Review, 124, 1311-1322. 10. McGregor, J. L., (2005a), C-CAM: Geometric aspects and dynamical formulation [electronic publication]. CSIRO Atmospheric Research Tech Paper 70, 43 pp. 11. McGregor, J. L., (2005b), Geostrophic adjustment for reversibly staggered grids. Monthly Weather Review, 133, 1119-1128. 12. Mcgregor, J. L. and M. R. Dix (2001), The CSIRO Conformal-Cubic Atmospheric GCM. IUTAM Symposium on advances in mathematical modelling of atmosphere and ocean dynamics, Kluwer, Dordrecht, 197-202. 13. McGregor, J. L. and M. R. Dix (2008), An Updated Description of the Conformal-Cubic Atmospheric Model. High resolution simulation of the atmosphere and ocean, Springer New York, 51-75. 14. Taylor, K. E., (2001), Summarizing multiple aspects of model performance in a single diagram. Journal of Geophysical Research: Atmospheres, 106, 7183-7192. 15. Phan Văn Tân, Hồ Thị Minh Hà, Lương Mạnh Thắng, Trần Quang Đức (2009), “Về khả năng ứng dụng mô hình RegCM vào dự báo hạn mùa các trường khí hậu bề mặt ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, 25, 241-251. 16. Phan Van, T., Van Nguyen, H., Trinh Tuan, L., Nguyen Quang, T., Ngo-Duc, T., Laux, P. and Nguyen Xuan, T., (2014), Seasonal prediction of surface air temperature across Vietnam using the Regional Climate Model version 4.2 (RegCM4. 2). Advances in Meteorology, 2014. 17. Vũ Thanh Hằng, Nguyễn Thị Hạnh (2014), “Thử nghiệm dự báo hạn mùa nhiệt độ trung bình tháng và lượng mưa tháng cho Việt Nam sử dụng mô hình clWRF”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, 30, 31-40. 18. Nguyễn Thị Hạnh, Vũ Thanh Hằng, Phan Văn Tân (2016), “Dự báo mưa hạn mùa bằng mô hình clWRF: Độ nhạy của các sơ đồ tham số hoá đối lưu”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, 32, 25-33. 19. Reynolds R. W. (1988), A real-time global sea surface temperature analysis. Journal of Climate, 1, 75-87. 20. Reynolds, R.W., N.A. Rayner, T.M. Smith, D.C. Stokes, and W. Wang (2002), An improved in situ and satellite SST analysis for climate. Journal of Climate, 15, 1609-1625. 21. Schwarzkopf, M. D., and V. Ramaswamy (1999), Radiative effects of CH4, N2O, halocarbons and the foreign-broadened H2O continuum: A GCM experiment. Journal of Geophysical Research, 104, 9467-9488. 22. Freidenreich, S. M., and V. Ramaswamy (1999), A new multiple-band solar radiative parameterization for general circulation models. Journal of Geophysical Research, 104, 31389-31409. 23. Kowalczyk, E. A., Y. P. Wang, R. M. Law, H. L. Davies, J. L. McGregor, and G. Abramowitz (2006), The CSIRO Atmosphere Biosphere Land Exchange (CABLE) model for use in climate models and as an offline model. CSIRO Marine and Atmospheric Research Paper 13, 37 pp. 24. Holtslag, A. A. M., and Boville, B. A. (1993:), Local versus nonlocal boundary-layer diffusion in a global climate model. Journal of Climate, 6, 1825-1842. 25. Gordon, H. B., L. D. Rotstayn, J. L. McGregor, M. R. Dix, E. A. Kowalczyk, S. P. O’Farrell, L. J. Waterman, Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu Số 4 - 2017 45 A. C. Hirst, S. G. Wilson, M. A. Collier, I. G. Watterson, and T. I. Elliott (2002), The CSIRO Mk3 climate system model. Technical Report 60, CSIRO Atmospheric Research, 130 pp. STUDY THE APPLICABILITY OF GLOBAL MODEL IN SEASONAL FORECASTING FOR VIET NAM Mai Van Khiem, Pham Quang Nam, Ha Truong Minh, Vu Van Thang Viet Nam Institute of Meteorology, Hydrology and Climate Change Abstracts: This article presents some experimental results of application of Conformal-Cubic Atmospheric Model (CCAM) in seasonal forecasting for the global and regional Viet Nam. The results of forecast in period 2012-2014 with different boundary conditions (sea surface temperature - SST) were analyzed and assessed, source SST forecast from global climate model CFS of the National Centers for Environmental Prediction (CCAM_CFS), and SST from the International Research Institute for Climate and Society (CCAM_IRI). The results show that model has well predicted large-scale circulation all over the global compared to CFS analysis data and CFS forecast for both cases. Over Viet Nam, the forecast of temperature tends to be lower than observed for most of the months, the error in winter months is greater than in summer months, the error in the north is greater than in the south. The average error of lead time 3 months of both cases is about 2.5oC, the error is quite stable and systematic. For rainfall, the forecast is more variability and tends to be lower in the rainy season. Relative error in the rainy season is about 35-70% in the northern climatic regions, the southern part is smaller. The predictive skill of temperature of CCAM_IRI gives better CCAM_CFS and at medium lead times are better than short and long. But with rainfall, the skill in short lead times are better than others and skill of CCAM_CFS is significantly better. Keywords: CCAM, global model, SST forecasts, seasonal forecasting, Viet Nam region.
File đính kèm:
- nghien_cuu_ung_dung_mo_hinh_toan_cau_trong_du_bao_khi_hau_ha.pdf