Nghệ thuật trang trí bao lam tại chùa Giác Viên ở thành phố Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Chùa Giác Viên là một di tích kiến trúc được tôn tạo vào khoảng đầu thế kỉ XIX tại Thành
phố Hồ Chí Minh (TPHCM). Các bao lam chạm khắc ở chùa Giác Viên là một công trình nghệ
thuật tiêu biểu, mang dấu ấn dân tộc rõ nét, khá điển hình về mĩ thuật ở vùng đất phương Nam. Do
đó, việc nghiên cứu, phổ biến và bảo tồn vốn quý nghệ thuật dân tộc là điều cần thiết và cấp bách
đối với mỗi chúng ta trong giai đoạn hiện nay.
ỗi bên 5 con, con đậu, con tung cánh chuẩn bị bay, con đang bay. Phía dưới bao lam mỗi bên có hai tảng đá. Ở thân cây mọc từ tảng đá trên, tảng đá dưới có một vị ngư phủ đang trong tư thế cúi, nón đeo sau lưng, đầu quấn khăn, phía sau tảng đá là giỏ cá, nhân vật được trang trí nút thắt vải ngang bụng, quần xắn lên gần ngang đầu gối, một tay nắm hờ đưa ra sau, còn tay kia đưa ra phía trước với hai ngón tay chỉ thẳng trong khi các ngón khác nắm lại như cử chỉ làm phép cho một chú cò đang vươn hai cánh lên, đầu gục xuống đất. Ở trung tâm bao lam là hình hoa cúc lớn cách điệu, dưới cùng là hình hoa văn trang trí kiểu bệ đỡ có chạm lá cách điệu. Với phong cách thể hiện vừa cách điệu vừa tả thực, phần thể hiện nội dung chính mang tính tả thực, trong khi đó các họa tiết trung tâm phía trên và phần kết của hai bên cánh gà bao lam được cách điệu theo phong cách truyền thống. Toàn bộ bố cục chuyển động uốn lượn lên trên và từ hai bên chạy tụ vào giữa trung tâm của bao lam. Các khoảng trổ thủng được nghệ nhân bố trí khéo léo, lớn nhỏ khác nhau. Các mảng trang trí cũng có sự thay đổi về hình dáng, thân cây bố trí hợp lí nhằm mục đích liên kết các mảng trang trí và khoảng trống chạm thủng. Việc sắp xếp khoảng trống phía trên nhiều, phía dưới ít, tạo cảm giác chắc chắn và dẫn mắt người xem từ dưới lên, càng lên cao cảm giác càng nhẹ nhàng, bay bổng. Các họa tiết chạm khắc khá chi tiết, tỉ mỉ như các cánh, mắt, mỏ và vẩy ở chân con cò được thể hiện rõ. Không những vậy, các thân, cành, lá còn rõ cả chi tiết gân lá, mắt, mấu của thân cây. Trên trái mãng cầu, nghệ nhân thể hiện các gai, cuống và thân hình cong theo các hướng khác nhau và rất được chú ý về mặt mĩ thuật. Các trái mãng cầu cũng thay đổi về kích thước lớn, nhỏ khác nhau, trái chìm sâu vào trong, trái lồi hẳn ra ngoài tạo một không gian mở trong trang trí. Với tất cả các thủ pháp nghệ thuật như trên đã nêu, nghệ nhân muốn tập trung thể hiện rõ ý nghĩa mình muốn biểu đạt, thể hiện một hình ảnh sống động về cuộc sống vùng đồng quê. Sự cách tân thể hiện trong việc sử dụng hình tượng trái mãng cầu để diễn tả những trái cây thân quen trong cuộc sống hàng ngày, gắn bó với đời thường, khác xa các loại trái cây trong điển tích các đồ án truyền thống như lựu, đào... TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Thu Tâm 111 Ý nghĩa của trái mãng cầu xuất hiện trong mâm ngũ quả ngày tết của người dân Nam Bộ cũng mang ý nghĩa như những điều mà nghệ nhân muốn chuyển tải trong bao lam đặc biệt này. Họa tiết vị ngư phủ với con cò gợi cho người xem hình ảnh rất đời thường, dân dã, đồng thời thể hiện sự gắn kết giữa con người với thiên nhiên. Sau gian chính điện, sát cửa sau của khu nhà Trai (khu giảng kinh Phật) là một bao lam dài 3,5m, cao 2,5m và bản rộng 0,25m. Mỗi bên bao lam trang trí 13 trái khổ qua, tổng cộng cả bao lam là 26 trái. Các trái được sắp xếp khi thì đơn lẻ, khi thành cặp hai trái, ba trái, xen kẽ là cây trúc và cành trúc. Càng lên trên các đốt trúc lại càng ngắn lại. Trên cành trúc, bên những trái khổ qua, lá trúc, lá khổ qua là những con chim. Mỗi bên 9 con, tổng cộng 18 con có dáng dấp sinh động, con đậu, con thì bay hoặc xòe cánh. Phần trung tâm được trang trí hai trái khổ qua được sắp xếp đăng đối trên nền chùm lá, tạo thành một đồ án đẹp tại trung tâm của bao lam. Nghệ nhân sắp xếp các cụm lá trúc, lá cây khổ qua xen kẽ tạo nên bố cục hòa quyện, các nét chạm khắc tinh xảo, có những cành trúc nhỏ chạm lộng chừng 1cm và nhỏ như cọng tăm. Các chi tiết nhỏ ở con chim cũng được chú ý từ lông cánh đến lông đuôi. Các con chim đứng thành cặp, có cả những chú chim nhỏ bên cạnh chim bố chim mẹ được thể hiện trong trang thái bình yên của một gia đình, các chi tiết nhỏ như lông, mắt, mỏ, chân chim được diễn tả chi tiết, sắc sảo. Hầu hết trái khổ qua được chạm nổi rồi ghép vào tấm chính, ta như nhìn rõ từng mấu lồi sần sùi trên thân trái, hình trái đa dạng gần với trái khổ qua thật. Các cây trúc thanh thoát, nhỏ nhắn, các mắt được chạm rõ ràng, lá trúc tạo thành từng chùm hay đơn lẻ đều được chú ý tới từng chi tiết. Các dây leo quấn quanh cây trúc tinh tế, mềm mại, sinh động. Phong cách nghệ thuật rất riêng biệt trong cách sắp xếp bố cục các mảng chạm khắc lá, cành, chim thay đổi liên tục không lặp lại, đồng thời các khoảng trống cũng không giống nhau về hình, về diện tích, các mảng thoáng dần ở phần trên. Dù chú ý từng chi tiết nhỏ như vậy song không làm phá vỡ bố cục chung, vừa vững vàng, chặt chẽ vừa thanh thoát, không gây cảm giác nặng nề hay dày đặc trong toàn bộ bao lam. Bố cục tạo cảm giác chuyển động từ dưới và từ hai phía lên, gặp nhau ở giữa rồi bung ra, như một sự mãn nguyện, thăng hoa. Nghệ nhân đã thể hiện được ý đồ của nội tâm là mong muốn một cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Theo quy luật tự nhiên, các đốt trúc dưới gốc thường ngắn hơn các đốt trúc ở trên ngọn, nhưng ở đây, nghệ nhân cố tình tạo các đốt ở trên ngọn ngắn sát nhau để thể hiện rằng càng lên cao thân càng chắc khỏe. Việc dùng hình tượng tre trúc vốn tượng trưng cho bậc quân tử trí nhân bên cạnh những trái cây thật dân dã Nam Bộ như khổ qua, nhằm ca ngợi tinh thần khí phách của người dân khai hoang mở cõi. Theo sự nhìn nhận của chúng tôi, bao lam này có phong cách và nội dung thuần Việt, cách diễn tả phóng khoáng, hiện thực, không bị ảnh hưởng bởi bất cứ một phong TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 14, Số 2 (2017): 107-113 112 cách nào trong cách thể hiện, mang đặc thù của cư dân Việt trên vùng đất Nam Bộ. Tóm lại, các bao lam chạm khắc của chùa Giác Viên ngoài giá trị về mặt tạo hình trong đường nét chạm khắc trang trí, ta còn thấy sự phát triển của đồ án trang trí, sự thoát li các đồ án điển tích truyền thống, tiếp nhận các đồ án mang tính dân dã, đời thường, thể hiện lối sống phóng khoáng, hào sảng đặc trưng. Các tác phẩm phản ánh những mong ước của người dân mà nghệ nhân Nam Bộ gửi gắm trong nội dung được chuyển tải qua nghệ thuật chạm khắc. Đằng sau ý nghĩa ẩn sâu ấy, hai tác phẩm nghệ thuật này dường như còn mang một ý nghĩa về tôn giáo sâu sắc. Bao lam trái mãng cầu và khổ qua đã thể hiện đậm nét dân gian thuần Việt của vùng đất phương Nam so với các bao lam khác trong chùa Giác Viên và các chùa khác tại TPHCM. 3. Kết luận “Nghệ thuật điêu khắc gỗ Nam Bộ có nguồn gốc từ Trung, Bắc. Những người thợ chạm, theo chân những di dân Thuận, Quảng vào hành nghề ở miền đất này. Mặc dù, ngay từ buổi đầu chắc đã có những tay thợ giỏi, nhưng cuộc sống lúc đó chưa có yêu cầu cao. Nhà cửa, đồ dùng bằng gỗ chỉ cần bền chắc là đủ thì có lẽ tài năng của họ chưa phát huy đúng mức. Tuy nhiên thời gian “thất nghiệp” của những người thợ chạm khắc gỗ kéo dài không lâu, vì tốc độ phát triển kinh tế xã hội ở vùng đất mới này rất nhanh chóng” [15, tr.535]. Cũng chính trong thời gian “thất nghiệp” đó, những người thợ chạm khắc phải bươn chải bằng việc song hành khai phá cùng di dân ở vùng đất mới. Chính vì vậy mà họ đã thấu hiểu những suy nghĩ, tình cảm, ước vọng của cư dân vùng đất phương Nam này, để rồi bộc lộ điều đó qua các công trình chạm khắc trang trí ở chùa. Họ thể hiện chân thực những nguyện ước, mong mỏi của người dân và sự phóng khoáng trong suy nghĩ cũng như trong cách tạo tác. Tác phẩm mang đậm chất địa phương Nam Bộ và dân gian người Việt, triết lí nhà Phật trên nền của ý tứ, kĩ thuật chạm khắc từ Trung, Bắc. Mỗi bao lam ở chùa Giác Viên là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị về văn hóa, là bằng chứng sống động về tâm tư tình cảm của con người ở vùng đất Nam Bộ xưa. Bài viết này góp phần bổ sung làm rõ thêm giá trị về các yếu tố tạo hình cũng như ý nghĩa về những biểu tượng đó. Chùa Giác Viên không chỉ có giá trị về mĩ thuật, lịch sử, văn hóa và khoa học, mà còn mang giá trị về mặt xã hội, tín ngưỡng nên cũng cần gắn với những hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật hơn nữa để xử lí hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển. TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Thu Tâm 113 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (hiệu đính, chú giải và khảo chứng) (2013), Đại Việt sử kí toàn thư, Nxb Thời đại. 2. Nguyễn Chí Bền (2006), Góp phần nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 3. Trần Lâm Biền (1993), Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình truyền thống Việt, Nxb Mĩ thuật, Hà Nội. 4. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 5. Trần Lâm Biền (chủ biên) (2001), Trang trí trong mĩ thuật truyền thống của người Việt, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 6. Trần Lâm Biền (2013), Con đường tiếp cận lịch sử, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 7. Trần Văn Cẩn (biên soạn) (1975), Việt Nam - Điêu khắc dân gian, Nxb Ngoại văn, Hà Nội. 8. Phạm Anh Dũng (2013), Kiến trúc đình, chùa Nam Bộ, Nxb Xây dựng, Hà Nội. 9. Lê Quý Đôn, (Trúc viên Lê Mạnh Liêu dịch) (1973), Đại Việt thông sử, Tủ sách cổ văn, Ủy ban dịch thuật, Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên. 10. Nguyễn Hiền Đức (1993), Lịch sử Phật giáo Đàng Trong (1558 – 1802), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 11. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên) (1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1, 2, 3, 4, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 12. Đại đức Thích Thiện Hoa (Pl 2550 - Dl 2006), Phật học phổ thông, Nxb Tôn giáo. 13. Thạch Phương, Lê Trung Hoa (chủ biên) (2008), Từ điển Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ. 14. Sở Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (1993), Hồ sơ di tích kiến trúc, nghệ thuật cấp Quốc gia chùa Giác Viên, quận 11, Trung tâm bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh. 15. Huỳnh Ngọc Trảng, Đỗ Duy Ngọc (1998), “Nghệ thuật chạm khắc gỗ Thành phố Hồ Chí Minh”, Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
File đính kèm:
- nghe_thuat_trang_tri_bao_lam_tai_chua_giac_vien_o_thanh_pho.pdf