Nghệ thuật tạo hình tượng giám trai bằng gốm trong chùa Giác Viên ở thành phố Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Tượng Phật Giám Trai trong chùa Giác Viên ở Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) là pho
tượng gốm tráng men quý hiếm thuộc dòng gốm Cây Mai, Sài Gòn xưa. Đây là pho tượng được chế
tác vào năm 1880, rất độc đáo về mặt mĩ thuật, mang nhiều giá trị trong nghiên cứu nghệ thuật
truyền thống Nam Bộ. Bài viết cũng là một trong những cơ sở ban đầu để nghiên cứu về đặc trưng
của mĩ thuật Nam Bộ.
Trai trong chùa Giác Viên được sử dụng tinh tế với 5 màu và có đủ gam màu nóng – lạnh, sáng – tối, các màu nóng chiếm diện tích nhiều tôn thêm màu lạnh (xanh lam của áo cà sa). Màu đen được sử dụng với diện tích nhỏ, đặt vào chỗ hợp lí và khá đắt làm tôn lên thần thái của nhân vật. Bên cạnh đó, các mảng tráng men láng, mảng gốm thô mộc đã tạo “chất” cho pho tượng. Khi quan sát phần áo, quần, khăn tráng men, sự phản quang như làm cho tượng bừng sáng lên. Hai màu men chủ đạo trên tượng là vàng da lươn và xanh ngọc trên áo cà sa đã tạo nên sự tương phản về màu nóng lạnh. Hình thức của tượng Phật thể hiện sự gần gũi đời thực hơn là theo những nguyên tắc truyền thống. Điều này đã tạo nên một tác phẩm nghệ thuật với phong cách tả thực, sống động. Ngoài cách tạo hình sinh động, tác phẩm còn vừa mang tính đời vừa góp phần làm rõ thân phận phong trần của Đức Phật Giám Trai. Điểm đặc biệt thể hiện đời thực trong tác phẩm còn nằm ở cách diễn tả đôi dép dưới chân của vị Phật này. Thông thường, tượng Phật để chân trần, nhưng ở đây, nghệ nhân đã cho tượng Phật mang dép. Chi tiết này chứng tỏ nghệ nhân tạo tác đã có những nghiên cứu thực tế rất kĩ, họ đã thổi hồn vào pho tượng làm cho tác phẩm càng như gần lại với đời thường. Quan sát kĩ ta thấy ở trán tượng Giám Trai có con mắt thứ ba, con mắt này là dấu hiệu của một tượng Phật, thể hiện tướng vô kiến đỉnh, trên đỉnh mắt nhô cao thể hiện đỉnh Unisha, Lậu Tận Thông tức đạt được trí tuệ Phật, hiểu biết cùng tận từ trong tới ngoài mọi biến chuyển của vũ trụ. Tóm lại, tượng Phật Giám Trai trong chùa Giác Viên mang phong cách Phật giáo Ấn rõ nét, pho tượng được nghệ nhân là người Hoa ở lò gốm Sài Gòn xưa thực hiện tại khu vực làng gốm Cây Mai và được thờ trong chùa Việt. Đây là một tượng gốm Giám Trai độc đáo có giá trị nghệ thuật cao, thể hiện rõ sự giao lưu, tiếp biến của mĩ thuật chùa Việt ở TPHCM. 3. Kết luận 3.1. Về lịch sử Trải qua những triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn, ông cha ta đã mở cõi về phương Nam, cùng với quá trình mở mang bờ cõi đó là sự phát triển của các làng nghề. Làng nghề gốm Nam Bộ cũng ra đời trong hoàn cảnh đó. Gốm đã được sử dụng trong đời sống, xã hội của người Việt tại Nam Bộ từ xa xưa. Tượng gốm Giám Trai là một tác phẩm mĩ thuật được chế tác phục vụ việc thờ cúng trong thời khai hoang, khẩn đất ở Đàng Trong. Vì vậy tượng thờ này đã trên trăm năm song hành cùng cư dân Việt trong hơn 300 năm tồn tại ở vùng đất Nam Bộ. Tượng Giám Trai là trong số ít tượng có ghi thời gian thực hiện, đối chiếu với lịch sử phát triển của vùng đất Sài Gòn xưa, từ tác phẩm này có thể hình thành một bối cảnh lịch sử về phát triển kinh tế cũng như quan niệm về Phật giáo, văn hóa của thời kì mà vùng đất Nam Bộ đang trên đà mở rộng, phát triển; trình độ thẩm mĩ của dân tộc Việt trong một giai đoạn phát triển TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 14, Số 8 (2017): 93-102 100 của lịch sử, khi mà cuộc sống thường nhật của con người còn phụ thuộc vào may rủi. Lò gốm Cây Mai nay chỉ còn lại dấu tích và tượng Giám Trai - gốm Cây Mai là một cổ vật của dân tộc. Pho tượng cũng là một chứng nhân lịch sử cho sự tồn tại một địa danh cổ của phương Nam. Gốm Sài Gòn - Gốm Cây Mai của xóm Lò Gốm “chơn vò vò Bàn Cổ xây trời”, “Gốm sành men màu Cây Mai đã xuất hiện trong lịch sử gốm mĩ thuật Nam Kỳ như những kẻ tiên phong. Chính vì vậy, bản thân ngành nghề thủ công này và những thành tựu của nó có giá trị lịch sử đáng kể”. (Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc, 1994, tr.40). 3.2. Về văn hóa Theo chúng tôi, việc sử dụng nguyên vật liệu gốc mua từ Trung Quốc nhưng việc tạo men ngay tại làng gốm Cây Mai mang những đặc thù riêng. Các màu nâu nhạt (men da lươn) có hai sắc độ sử dụng trên da, quần; màu men xanh ngọc được sử dụng trên áo cà sa; màu trắng được dùng trên dải lụa, lưỡi rìu là những màu thường thấy trên đồ gốm của thời Lý, Trần, Nguyễn. Tuy nhiên, trên tượng Giám Trai, các màu men đời trước sử dụng đơn lẻ thì nay phối hợp lại với nhau tạo nên một hòa sắc khá đặc biệt và cũng ít nhiều ảnh hưởng gam màu men từ Trung Quốc. Đồng thời, cách tô màu đậm nhạt trên tượng Phật phảng phất cách thể hiện của tranh thủy mặc Trung Quốc. Nhưng điều đáng nói ở đây là nghệ nhân chế tác tác phẩm này lại chính là những người lam lũ khai khẩn trên vùng đất phương Nam. Chính vì vậy mà gốm Cây Mai thấm đượm tinh thần của những người Việt đi khai khẩn vùng đất mới. Nghệ nhân đã thổi vào tác phẩm của mình một phong cách riêng, phù hợp phong tục, tín ngưỡng người Việt - một đặc trưng Việt. Sự đặc trưng của vùng đất phương Nam còn nằm ở cách thể hiện sự giao lưu nghệ thuật trên cùng một pho tượng trong chùa Việt với toàn bộ tượng Giám Trai mang sắc thái của dòng Phật giáo Ấn Độ; nguyên vật liệu gốc, kĩ thuật để làm tượng Phật phần lớn từ Trung Quốc; do người nghệ nhân Việt, Hoa cùng tạo tác thành tác phẩm của người Việt. Điều đó thể hiện tính giao thoa của nghệ thuật, của các dân tộc, của văn hóa Việt - Hoa - Ấn mà ta thấy ở nhiều nơi trên vùng đất Nam Bộ. Những nghệ nhân gốm Cây Mai đã biết chắt lọc tinh hoa của thế giới để tạo nên những tác phẩm mang tinh thần thuần Việt sâu sắc. Bên cạnh đó, sự ảnh hưởng của tiếp biến văn hóa từ gốm Cây Mai lên gốm Biên Hòa cũng rất sâu sắc. Nhiều nghệ nhân lão luyện gốm Cây Mai đã đến dạy nghề ở Trường Mĩ nghệ Biên Hòa (sau năm 1925). Đây là sự kế thừa truyền thống văn hóa của gốm Cây Mai, nên gốm Cây Mai nói chung và tượng Giám Trai - Cây Mai nói riêng mang đậm nét văn hóa truyền thống phương Nam cổ, một nét văn hóa tâm linh thờ cúng cổ. Đây là thành tố cội nguồn hình thành văn hóa Việt Nam xuyên suốt từ 1000 năm trước đến nay. Gốm Cây Mai đã trải qua những thăng trầm bởi sự biến thiên của lịch sử. Nhiều cuộc chiến tranh đi qua, hiện nay là quá trình đô thị hóa, việc gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống là hết sức cần thiết. Di tích lò gốm Cây Mai – một nét văn hóa đặc TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Thu Tâm 101 trưng phương Nam rất khó tìm nên yêu cầu về bảo tồn gốm Cây Mai cần được đặt ra trong giai đoạn hiện nay. 3.3. Về nghệ thuật Gốm là nghệ thuật giao thoa giữa đất và lửa, đó là thế giới đầy biến ảo sắc màu của đất qua lửa. Trong lĩnh vực mĩ thuật, tượng Giám Trai - gốm Cây Mai đã cống hiến một loại gốm men xanh lưu li đặc trưng mà ảnh hưởng của nó đối với gốm sành xốp men màu thời sau là rất quan trọng. Nhận dạng về tượng thờ mang phong cách Trung Hoa: “Trang phục, trang trí hoa văn, trang sức. Nét mặt thon dài với đôi mắt hơi xếch, nhỏ, mày cong, mũi nhỏ, môi mỏng” (Trần Hồng Liên, 2008, tr.90). Tượng Giám Trai chùa Giác Viên không có những đặc điểm của phong cách Trung Hoa (không trang trí hoa văn trên vạt áo, mặt vuông chữ điền, mắt mở to, lông mày dướn lên, trái mũi lớn, môi dày, miệng hơi cười, bộ râu quai nón rõ nét). Tượng Giám Trai mang đậm phong cách Phật giáo Ấn nhưng thoát ra ngoài khuôn khổ, quy ước tạo tác tượng thờ và rất gần gũi với đời thường, đậm nét văn hóa Việt ở vùng đất mới. Tượng Giám Trai - gốm Cây Mai là một tác phẩm nghệ thuật cổ tuyệt đẹp, dáng vẻ vừa phóng khoáng thanh thoát lại vừa uy nghi. Nghệ thuật phối hợp men màu, sự kết hợp hài hòa giữa cái thô mộc và chất mềm mại của nếp áo làm cho tác phẩm mang phong cách sáng tạo và một xu hướng nghệ thuật rất riêng biệt: mộc mạc sâu lắng, đầy nội tâm. Đó là phong cách nghệ thuật sáng tạo bằng tâm hồn luôn hướng đến cái đẹp, cái thiện. Tượng Giám Trai được tạo tác trên tích nhà Phật, mang hơi thở của Phật giáo Ấn Độ và được những nghệ nhân người Hoa, Việt thực hiện trên đất Việt khi họ định cư ở Đàng Trong với sự chấp thuận của chúa Nguyễn và pho tượng được thờ trong chùa của người Việt trên đất Sài Gòn đã cho thấy sự giao lưu văn hóa nghệ thuật Phật giáo sâu sắc ở vùng đất này và dần ăn sâu vào tâm thức con người vùng Nam Bộ. Đó cũng là một trong những yếu tố tạo nên phong cách sống mang đặc thù của con người nơi đây. Chính những cổ vật quý đã giúp chúng ta nhìn lại một nền nghệ thuật gốm cổ. Đây cũng là chứng nhân của sự giao lưu tiếp biến giữa nghệ thuật Ấn Độ, Việt, Hoa trên vùng đất Sài Gòn. “Biến di sản tượng cổ của cha ông thành tài sản của chúng ta, chúng ta không chỉ để viên ngọc trong bảo tàng mà phải gắn vào cuộc sống hôm nay” (Chu Quang Trứ, 2016, tr.516). TÀI LIỆU THAM KHẢO Phan An (chủ biên). (1990). Chùa Hoa Thành phố Hồ Chí Minh. TPHCM: NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Trần Lâm Biền. (1996). Chùa Việt. Hà Nội: NXB Văn hóa - Thông tin. Trịnh Hoài Đức, (Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Ngọc Tỉnh, Đào Duy Anh dịch). (1998). Gia Định thành thông chí. Hà Nội: NXB Giáo dục. Thu Giang, Nguyễn Duy Cần. (2013). Phật học tinh hoa. TPHCM: NXB Trẻ. TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 14, Số 8 (2017): 93-102 102 Nguyễn Thị Hậu. (16/6/2008). Xóm Lò Sài Gòn xưa. hoa-viet-nam/van-hoa-co-trung-dai-o-viet-nam/489-nguyen-thi-hau-xom-lo-gom-sai-gon- xua.html Cao Lập, Nguyễn Trọng Chức, Lê Triều Điền, Lê Ký Thương. (2007). Gốm Phương Nam. TPHCM: NXB Sở Văn hóa Thông tin. Trần Hồng Liên. (2008). Chùa Giác Lâm, di tích lịch sử - văn hóa. TPHCM: NXB Khoa học Xã hội. Trần Phương Nam. (1987). Chùa Giác Viên - Chùa Hố Đất. Tài liệu lưu hành nội bộ, Phòng Di sản Thành phố Hồ Chí Minh. Sở Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh. (1993). Hồ sơ di tích kiến trúc, nghệ thuật cấp quốc gia chùa Giác Viên, Quận 11, Trung tâm bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh. Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc. (1994). Gốm Cây Mai - Sài Gòn Xưa. TPHCM: Nxb Trẻ. Chu Quang Trứ. (2016). Tượng cổ Việt Nam với truyền thống điêu khắc dân tộc. Hà Nội: NXB Mĩ thuật. Trương Ngọc Tường. (2012). Gốm Sài Gòn và gốm Chợ Lớn, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam,
File đính kèm:
- nghe_thuat_tao_hinh_tuong_giam_trai_bang_gom_trong_chua_giac.pdf