Nâng cao chất lượng kiểm toán của kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu hiến định
Sau 20 năm hoạt động, từ một cơ quan không có tổ chức tiền thân và chưa có tiền lệ hoạt động trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Nhà nước ta, KTNN đã trở thành một thiết chế hiến định độc lập, nâng cao vị trí, vai trò và trách nhiệm của KTNN trong kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Để đáp ứng yêu cầu hiến định, cần phải nâng cao chất lượng kiểm toán của
KTNN trên cả 3 mặt: năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động thông qua việc thực hiện đầy đủ và đồng bộ
các giải pháp về tổ chức và hoạt động của KTNN.
quản lý tài chính, ngân sách, tiền và tài sản nhà nước chưa được củng cố và hoàn thiện một cách tương xứng ở các đơn vị sau khi được kiểm toán. Các sai phạm, tiêu cực, lãng phí vẫn tiếp tục xảy ra và cá biệt có trường hợp niên độ kiểm toán sau sai phạm nhiều hơn niên độ kiểm toán trước. Hoạt động kiểm toán chưa phát hiện được nhiều vụ việc tham nhũng để kiến nghị xử lý theo pháp luật. Bốn là, trình độ của đội ngũ kiểm toán viên chưa đồng đều, thiếu kinh nghiệm, vẫn còn hiện tượng KTV vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động kiểm toán; Năm là, cơ sở vật chất của cơ quan kiểm toán chưa hoàn chỉnh, trụ sở và phương tiện làm việc còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ cho công tác. Để khắc phục những hạn chế, tồn tại nêu trên, nâng cao chất lượng kiểm toán đáp ứng yêu cầu hiến định, theo chúng tôi cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản sau đây: Một là, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý và các quy định về chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán Luật KTNN năm 2015 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 24 tháng 6 năm 2015 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016. Với mục đích cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về KTNN, khắc phục những bất cập trong thực tiễn hoạt động KTNN, Luật KTNN năm 2015 có nhiều điểm mới: Mở rộng phạm vi đối tượng kiểm toán của KTNN là việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; quy định rõ về giá trị pháp lý của Báo cáo kiểm toán; quy định cụ thể thời hạn của một cuộc kiểm toán; bổ sung đơn vị được kiểm toán là cơ quan quản lý sử dụng nợ công, thực hiện kiểm toán đối với Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống, khi cần thiết, bổ sung quyền khiếu nại của đơn vị được kiểm toán về kết quả kiểm toán của KTNN... Tuy nhiên, sau gần 03 năm thi hành, một số quy định của Luật KTNN năm 2015 đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế nhất định, như: Nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN chưa tương xứng với vị trí, chức năng được giao; phạm vi, đối tượng kiểm toán và đơn vị được kiểm toán chưa đồng bộ, thống nhất; quy định về đơn vị được kiểm toán chưa bao quát hết các cơ quan, tổ chức có quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; thiếu chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về KTNN... Do vậy, việc sửa đổi Luật KTNN cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau đây: - Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 10 về lập kế hoạch kiểm toán hằng năm của KTNN: “Kế hoạch kiểm toán năm của KTNN sau khi ban hành và báo cáo Quốc hội là căn cứ để Thanh tra Chính phủ và thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, cơ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 35Số 137 - tháng 3/2019 quan thuộc Chính phủ điều chỉnh kế hoạch thanh tra của mình”. Quy định này nhằm khẳng định giá trị pháp lý của kế hoạch kiểm toán, bảo đảm tính độc lập và vị thế của KTNN là cơ quan kiểm tra tài chính công do Quốc hội thành lập; đồng thời, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp giữa hoạt động thanh tra với hoạt động KTNN. - Bổ sung nhiệm vụ kiểm toán thuế để bao quát hết phạm vi đối tượng kiểm toán là hoạt động quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công theo quy định của Hiến pháp, phù hợp khuyến cáo của INTOSaI và thông lệ quốc tế. - Mở rộng đơn vị được kiểm toán: Luật KTNN năm 2015 quy định về đơn vị được kiểm toán chưa bao quát hết các đơn vị, tổ chức có hoạt động quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công thuộc phạm vi đối tượng kiểm toán của KTNN theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Do vậy, cần bổ sung đơn vị được kiểm toán là: “Các đơn vị, tổ chức có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước; các tổ chức, đơn vị, chủ đầu tư sử dụng, khai thác đất đai, tài nguyên khoáng sản; các dự án PPP (BOT, BT) và các tổ chức, cá nhân khác có hoạt động liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công”. - Bổ sung vào Điều 71 mức phạt tiền tối đa và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN làm cơ sở cho Chính phủ ban hành Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN. Cùng với việc sửa đổi, bổ sung Luật KTNN, cần tiếp tục hoàn thiện quy định về chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán, trong đó: - Tiếp tục xây dựng các văn bản hướng dẫn chi tiết Hệ thống chuẩn mực KTNN; trước mắt, khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết phương pháp tiếp cận kiểm toán dựa trên trọng yếu, rủi ro, theo đó xác lập các mức, ngưỡng trọng yếu trước khi lập kế hoạch kiểm toán tổng quát; việc xác định và vận dụng trọng yếu kiểm toán tài chính, trình bày ý kiến kiểm toán theo dạng ý kiến chấp nhận toàn phần trong kiểm toán tài chính. - Hoàn thiện hệ thống quy trình kiểm toán: Trên cơ sở Hệ thống chuẩn mực KTNN mới được ban hành, KTNN cần tập trung xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống quy trình kiểm toán. Ngoài Quy trình kiểm toán chung, KTNN phải có đầy đủ các quy trình về kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động; từng bước cụ thể hoá quy trình kiểm toán theo chuyên ngành hẹp phù hợp với các loại hình kiểm toán theo quy định của Luật KTNN. - Xây dựng các văn bản hướng dẫn áp dụng phương pháp kiểm toán tiên tiến hiện đại là tiếp cận đánh giá rủi ro và trọng yếu kiểm toán. - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống mẫu biểu, hồ sơ kiểm toán; nghiên cứu, xây dựng hệ thống mẫu biểu, hồ sơ kiểm toán liên quan đến việc thực hiện những quy định mới của Luật KTNN. Hai là, hoàn thiện tổ chức bộ máy, biên chế đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ Tiếp tục phát triển, hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy của KTNN theo mô hình quản lý tập trung thống nhất, tinh, gọn, theo hướng chuyên môn hóa cao, phân định rõ và khắc phục sự chồng chéo chức năng nhiệm vụ của các đơn vị trực thuộc. Hoàn thiện tổ chức KTNN chuyên ngành ở trung ương và KTNN khu vực theo hướng chuyên môn hóa đối tượng kiểm toán theo ngành hẹp; thành lập đủ khoảng từ 12 - 15 KTNN khu vực (mỗi KTNN khu vực đảm nhiệm từ 4 - 5 tỉnh, thành phố). Biên NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN36 Số 137 - tháng 3/2019 chế dự kiến đến năm 2020 khoảng từ 2.600 người, đến năm 2030 có khoảng 3.500 người; xây dựng đội ngũ kiểm toán viên “vừa hồng, vừa chuyên”, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, tinh thông về nghiệp vụ chuyên môn, trong đó có một số chuyên gia đạt trình độ khá của khu vực, có khả năng hội nhập tích cực với KTNN các nước trên thế giới. Ba là, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ công chức, viên chức, KTV nhà nước Nghề nghiệp kiểm toán yêu cầu đội ngũ công chức, KTVNN phải có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và kỹ năng tương xứng, đòi hỏi phải có quá trình tuyển dụng, đào tạo, huấn luyện rất công phu. Ngoài yêu cầu cao về trình độ chuyên môn, công chức, KTVNN còn phải là người có đạo đức nghề nghiệp thích hợp. Theo Chuẩn mực kiểm toán quốc tế cũng như Chuẩn mực KTNN Việt Nam thì KTVNN phải đảm bảo các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp: Liêm chính; độc lập, khách quan; trình độ, năng lực; kỹ năng chuyên môn; thận trọng nghề nghiệp và bảo mật. Do vậy, để nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ KTVNN, cần đặc biệt chú trọng công tác giáo dục, đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp kiểm toán theo phương châm “Công minh, chính trực, nghệ tinh, tâm sáng”. Bốn là, đáp ứng đầy đủ các điều kiện bảo đảm hoạt động của KTNN Đảm bảo đầy đủ, kịp thời về biên chế, cơ sở vật chất, kinh phí và phương tiện hoạt động là nhân tố quyết định để đảm bảo tính độc lập của KTNN trên thực tế và tạo điều kiện để KTNN hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và Luật KTNN năm 2015. Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước hệ thống trụ sở, phương tiện làm việc của cơ quan KTNN ở trung ương và các khu vực tại các địa phương được chú trọng đầu tư nâng cấp khang trang, hiện đại và cơ bản trang bị đầy đủ, đồng bộ trang thiết bị, phương tiện làm việc tại tất cả các đơn vị trực thuộc cơ quan KTNN theo tiêu chuẩn, định mức Chính phủ quy định. Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiệm vụ ngày càng tăng với yêu cầu chất lượng cao, số lượng biên chế hiện nay của KTNN còn rất thiếu so với yêu cầu nhiệm vụ; chưa có chế độ chính sách đãi ngộ theo tính chất hoạt động đặc thù kiểm toán. Do vậy, để nâng cao chất lượng kiểm toán đáp ứng yêu cầu hiến định, trong thời gian tới cần đặc biệt chú trọng quan tâm bố trí đủ biên chế cho KTNN, có chế độ chính sách đãi ngộ phù hợp với đặc thù nghề nghiệp kiểm toán và đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong hoạt động kiểm toán. Năm là, tăng cường hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán, thanh tra công vụ Công tác kiểm tra, kiểm soát, thanh tra là một biện pháp quan trọng trong việc ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật. Đối với KTNN, do tính chất công việc, hoạt động kiểm toán được tổ chức theo đoàn kiểm toán, tùy thuộc vào quy mô, tính chất phức tạp của từng cuộc kiểm toán, KTNN sẽ bố trí số lượng KTV và cơ cấu đoàn kiểm toán cho phù hợp. Trong thời gian kiểm toán, KTV chủ yếu làm nhiệm vụ ngoài trụ sở cơ quan KTNN; hành vi công vụ của KTVNN có liên quan trực tiếp đến trách nhiệm quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công của đơn vị được kiểm toán và các cá nhân có liên quan, do đó trong thực tế dễ xảy ra tình trạng lạm quyền. Do vậy, để nâng cao chất lượng kiểm toán, việc tăng cường kiểm soát chất lượng kiểm toán, kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động công vụ của công chức nói chung và KTVNN nói riêng là biện pháp hết sức cần thiết cần phải được chú trọng tăng cường trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa XII; 2. Hiến pháp năm 2013; 3. Luật Kiểm toán nhà nước năm 2005; 4. Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015; 5. Báo cáo tổng kết 20 năm hoạt động của KTNN; 6. Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Luật KTNN năm 2015.
File đính kèm:
- nang_cao_chat_luong_kiem_toan_cua_kiem_toan_nha_nuoc_dap_ung.pdf