Lý giải về sự xuất hiện của yếu tố tự sự ở các ngâm khúc trữ tình trong văn học Việt Nam trung đại
TÓM TẮT
Trong tác phẩm tự sự, cốt truyện đóng vai trò chủ đạo, thì ngâm khúc là những tác
phẩm trữ tình trường thiên diễn tả tâm trạng đau buồn, u uất triền miên của con người. Làm
thế nào để kéo dài hàng trăm câu thơ chỉ với mục đích phơi bày tâm trạng như thế. Muốn
giải bày, thổ lộ tình cảm không còn con đường nào khác là kể lại những việc có liên quan
đến tình cảm ấy. Vì thế trong tác phẩm trữ tình ít nhiều có yếu tố tự sự. Tự sự đã đi vào
ngâm khúc và xóa đi khoảng cách tưởng chừng như không thể tiệm cận giữa hai thể loại.
Khoa thược dược mơ mòng thụy vũ, Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu. Cành xuân hoa chúm chím đào, Gió đông thôi đã cợt đào, ghẹo mai. Đoàn Thị Điểm hóa thân vào người chinh phụ để dịch Chinh phụ ngâm. Trong Chinh phụ ngâm cũng có khá nhiều lời tự sự. Đây là lời tự sự miêu tả về chân dung, diện mạo, hành động của người chinh phu lúc mới xuất chinh: Múa gươm rượu tiễn chưa tàn, Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo. Áo chàng đỏ tựa ráng pha, Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in. Còn đây là lời tự sự miêu tả cảnh chia tay: Nhủ rồi tay lại cầm tay, Bước đi một bước dây dây lại dừng. Chốn Hàm Kinh chàng còn ngoảnh lại, Ngác Tiêu Tương thiếp hãy trông sang. Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương, Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. Đây là lời kể, tả về gia cảnh của người chinh phu: Kìa lão thân khuê phụ nhớ thương, Tóc già phơ phất mái sương, Con thơ măng sữa vả dương phù trì. Lòng lão thân buồn khi tựa cửa, Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm. Trong Tự tình khúc, Cao Bá Nhạ đã kể về cảnh sai nha ập vào nhà ông phá phách: Năm ba kẻ thước người hèo, Ngõ nhan lôi cái đan biều đập tan. Gà eo óc vừa tàn giấc mộng, Nhặng vo ve sực nức hồn kinh. Cảnh vợ con nheo nhóc: Tiểu đồng thổn thức xung quanh, Thê nhi lăn lóc bên mình khóc than. Cao Bá Nhạ tự nói về bản thân mình: Chim hồng mong chấp cánh bay, Năm xe kinh sử một tay vẽ vời. Và đây là lời tự tình thuật nghẹn trước giờ ly biệt: Ngoảnh vào ái ngại thê nhi, Ngoảnh ra án cũ cầm thi ngại ngùng. Trong Ai tư vãn, chủ thể trữ tình là người trong cuộc: - Trong sáu viện, ố đào, ủ liễu, Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm ghê. - Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ, Cất chân tay thương khó xiết chi. Đinh Nhật Thận hòa vào tâm trạng người “lữ thứ” để tả cảnh: Thơ nhã ái bốn câu lỡ vận, Rượu ly hoài ba chén làm khuây. Trước đèn ngồi tựa như trai, Não lòng đất khách ngậm ngùi người xưa. Các yếu tố tự sự trong các tác phẩm ngâm khúc như đã nói ở trên, gồm khá nhiều yếu tố, tuy nhiên thể hiện rõ nhất là một cốt truyện sơ giản. Theo Từ điển thuật ngữ văn học coost truyện “là hệ thống các sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu và tư tưởng nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch” [4, 99]. Cốt truyện là sản phẩm sáng tạo độc đáo của nhà văn. Mọi cốt truyện đều trải qua một tiến trình vận động có hình thành, phát triển và kết thúc. 129 Trong Chinh phụ ngâm khúc, người đọc nhận ra cáy ý bao trùm lên khúc ngâm là tiếng nói tố cáo, phản đối chiến tranh. Chiến tranh đã cướp đi tình yêu, hạnh phúc, tuổi trẻ của con người. Cốt truyện trong Chinh phụ ngâm xoay quanh câu chuyện một đôi vợ chồng trẻ đang sống yên ấm, hạnh phúc thì chiến tranh nổ ra, người chồng vội vã lên đường theo lệnh nhà vua: Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt, Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây. Chín lần gươm báu trao tay, Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh. Người chinh phụ trở về khuê phòng, tưởng tượng về cảnh sống của chồng nơi chiến địa. Nàng lo lắng cho chồng ở ngoài chiến trường đầy khốc liệt: Hồn tử sĩ gió ù ù thổi, Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi. Chinh phu tử sĩ mấy người, Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn. Đoạn tiếp theo của khúc ngâm, chủ yếu nói về tâm trạng nhớ thương, mong đợi của người chinh phụ trong cảnh cô quạnh. Người chồng lần lữa, chín hẹn mười thường đơn sai nhưng người vợ ở nhà vẫn làm tròn bổn phận của mình: phụng dưỡng cha mẹ già và nuôi con nhỏ. Nỗi sầu cứ chồng chất, người chinh phụ chán chường và tuyệt vọng không thiết tha đến điều gì chỉ mong được sống cùng chồng. Kết thúc tác phẩm, người chinh phụ hình dung ngày chồng nàng trở về trong niềm vui chiến thắng khải hoàn, được nhà vua ban thưởng và cùng nàng sống hạnh phúc trong thanh bình, yên ả: Giữ gìn nhau vui thuở thái bình Ngân nga xin gửi chữ tình: Dường này âu hẳn tài lành trượng phu. Trong Cung oán ngâm khúc, cốt truyện xoay quanh việc một cô gái trẻ đẹp và có tài, nàng được nhà vua tuyển vào trong cung: Hương trời đắm nguyệt say hoa, Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình. Lúc đầu nàng được nhà vua cưng chiều, sủng ái, ân ái mặn nồng thắm thiết: Mây mưa mấy giọt chung tình, Đình trầm hương đóa một cành mẫu đơn. Nhưng chẳng bao lâu, nàng đã bị nhà vua chán bỏ. Ở trong cung, nàng xót thương cho thân phận của mình và oán trách nhà vua phụ bạc: Khoảnh làm chi bấy chúa xuân Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi. Cung nữ muốn “đạp tiêu phòng mà ra”, khát khao trở về với cảnh đời “cục mịch nhà quê” thuở trước nhưng nàng vẫn tiếp tục bị giam cầm trong cung điện vàng son, trong nỗi buồn đau, sầu thảm và oán hờn chất chứa. Cuối cùng nàng vẫn khát khao có được những cuộc ân ái hiếm hoi khi xưa: Tình rầu rĩ làm ngây nhĩ mục, Chốn phòng không như giục mây mưa. Giấc chiêm bao những đêm xưa, Giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày. Nàng vẫn mong chờ được nhà nhà vua đoái hoài đến và lo lắng không giữ được sắc đẹp như xưa: Phòng khi động đến cửu trùng, Giữ sao cho được má hồng như xưa. Trong Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ, người đọc nhận ra cái ý bao trùm của khúc ngâm là cái ý oán hận vì tác giả phải trả cái tội mà mình không làm. Đại để đó là sự quanh co, bực bội, âu sầu của người tù Cao Bá Nhạ. Qua tâm sự ấy, ta nhận thấy trước hết là đạo nghĩa rất mạnh của Nho gia. Qua tâm sự ấy ta còn nhận thấy một Bá Nhạ giàu tình cảm: lòng nhớ quê hương, thương 130 cha me, thương vợ con và thương thân trải ra trong nhiều câu lâm ly. Theo Phạm Thế Ngũ, tác giả làm ra khúc ngâm này chủ ý biện hộ cho mình trước “tội lỗi” (theo quan điểm của nhà Nguyễn) mà chú ông là Cao Bá Quát gây ra (cầm đầu khởi nghĩa Mỹ Lương) và xin triều đình ân xá. Tác phẩm gồm 680 câu thơ song thất lục bát viết bằng chữ Nôm, có thể chia làm 6 phần: Mở đầu (8 câu): Sau khoảng tám năm lẩn trốn (1854- 1862), tác giả giờ đây bị bắt nên làm ra khúc ngâm này để bày tỏ tâm sự của mình. Giới thiệu về gia thế (từ câu 9 đến câu 36): Tác giả họ Cao ở làng Phú Thị, đã mấy đời khoa bảng, vẫn luôn lấy sự thanh liêm cần mẫn làm đầu. Gia biến và lánh nạn (từ câu 37 đến câu 188): Vì tội của chú (Cao Bá Quát) mà cha tác giả phải tự sát, bản thân phải trốn ở nơi hẻo lánh (Mĩ Đức thuộc Hà Đông cũ) làm thày đồ tạm quên sầu muộn với sách và hoa. Tác giả nói mình đã có vợ con, bấy lâu nay chỉ mong được nhà vua ân xá. Thuật lại việc bị bắt (từ câu 189 đến câu 324): Không ngờ có người tố giác, bị quan bao vây, bắt bỏ cũi đưa đi (Hải Dương, Bắc Ninh), chịu nhiều khổ sở, nhục nhã. Kể tâm sự trong ngục (từ câu 325 đến câu 572): Tác giả buồn tủi, đau đớn vì bị oan ức nhưng vẫn cố gắng giữ lòng ngay thẳng và rất nhớ về cha mẹ, vợ con ở quê nhà. Kết thúc (từ câu 572 đến 608): Tác giả tin vào đạo lý thánh hiền, hy vọng vào công lý của trời và phúc đức của nhà mình. Cũng giống như hoàn cảnh của Cao Bá Nhạ, Đinh Nhật Thận là bạn thân của Cao Bá Quát. Khi Cao Bá Quát dấy binh khởi nghĩa không thành, Đinh Nhật Thận bị nghi ngờ có liên quan nên ông bị bắt và bị giải về kinh đô (Huế) để xét hỏi. Nhưng sau đó ông được tha và trở về quê nhà. Thu dạ lữ hoài ngâm được ông làm trong thời gian ông bị quản thúc ở Huế. Thu dạ lữ hoài ngâm là câu chuyện về nỗi niềm của nhà thơ: tình thương nhớ quê hương và gia đình, là nỗi buồn đau, xót xa khi bị giam cầm ở một nơi lạnh lẽo, xa lạ. Còn cốt truyện trong Ai tư vãn thì lại xác định theo bố cục sau: Từ câu 1 đến câu 20: Kể công đức của vua Quang Trung, kể về mối lương duyên của bà: Từ câu 21 đến câu 28: Kể về tình nghĩa vua Quang Trung đối xử với nhà Lê: Từ câu 29 đến câu 44: Vua Quang Trung nhuốm bệnh rồi mất. Từ câu 45 đến 108: Kể về nỗi niềm thương xót của bà, bà hồi tưởng lại cảnh sum vầy đẹp đẽ. Từ câu 109 đến câu 130: Nỗi buồn muốn chết theo chồng. Từ câu 131 đến câu 144: Thương cho cảnh côi cút của các con nhỏ và cảnh lẻ loi của người góa bụa ở trong cung. Từ câu 145 đến câu 164: Tâm sự đau thương của bà. 3. KẾT LUẬN Có thể thấy mọi chi tiết tự sự được sử dụng đều hướng đến nội dung trữ tình được nói đến trong tác phẩm. Và không chỉ đơn giản như một yếu tố phụ có vai trò làm phông nền cho tâm trạng mà tự sự đóng vai trò quan trọng. Không có nó, tâm trạng nhân vật sẽ thiếu đi một bệ đỡ, một điểm tựa để ra đời và phát triển. Dòng tâm trạng của nhân vật cũng vì thế mà không thể trôi chảy tự nhiên, thuận lợi và dễ dàng trong chiều của tác phẩm. Và một điều quan trọng hơn, sự có mặt của yếu tố tự sự sẽ giúp tâm trạng nhân vật được “lạ hóa”, không gây cảm giác nhàm chán và tẻ nhạt 131 cho người tiếp nhận. Vì sao lại nhận định như vậy? Có thể thấy, tâm trạng nhân vật tuy có rất nhiều sắc thái khác nhau nhưng đều đồng quy từ một chữ buồn nên ít nhiều nó có sự lặp lại. Tuy rằng sự lặp lại này cũng nằm trong dụng ý của khúc ngâm là triển khai đến mức tối đa sự trì trệ, ứ đọng, không gì giải tỏa và vượt thoát được của tình cảm, nhưng nó rất dễ gây mất hứng thú cho người đọc. Vì thế việc đưa vào chi tiết về việc làm, hành động của nhân vật sẽ nhằm đổi khẩu vị thưởng thức cho độc giả, khiến họ tưởng chừng như diện kiến một gương mặt cảm xúc mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 2. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 3. Lương Văn Đang, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Lộc (1987), Những ngâm khúc chọn lọc, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 4. Nguyễn Đăng Điệp (giới thiệu và tuyển chọn) (2004), Trần Đình Sử tuyển tập (tập 1), Những công trình thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. *Ngày nhận bài: 4/6/2014. Biên tập xong: 1/12/2014. Duyệt đăng: 6/12/2014
File đính kèm:
- ly_giai_ve_su_xuat_hien_cua_yeu_to_tu_su_o_cac_ngam_khuc_tru.pdf