Lạm bàn về nợ công và quản lý hiệu quả nợ công hiện nay tại Việt Nam
Nợ công không chỉ là nỗi bận tâm của nước nghèo mà còn cả của nước giàu, đồng thời là vấn đề chung của nhân loại vì nó là không khí sống của thương mại hiện đại và là một phần quan trọng không thể thiếu trong chính sách tài chính của mỗi quốc gia. Hãng tin CNBC dẫn số
liệu từ Viện Tài chính Quốc tế (IIF) cho biết khối nợ toàn cầu đã đạt mức 217 nghìn tỷ USD vào cuối tháng
3/2017, tương đương 327% tổng sản phẩm trong nước (GDP) của cả thế giới.[4]
Vì vậy, nợ công cần phải được quản lý và sử dụng hợp lý, hiệu quả,minh bạch nếu không thì khủng
hoảng nợ công có thể xảy ra với bất kỳ quốc gia nào tại bất cứ thời điểm nào và để lại những hậu quả
nghiêm trọng. Đây là chủ đề “nóng” với nhiều vấn đề quan trọng được đưa ra bàn luận, mổ xẻ từ nghị
trường của Quốc hội (QH), các hội nghị, hội thảo cũng như được dư luận xã hội quan tâm nhưng chưa có
sự đồng thuận cao, trong đó nổi lên 3 nội dung: phạm vi nợ công; ai là người quản lý nợ công và vấn đề
an toàn nợ công của Việt Nam. Do đó, bài viết góp phần trao đổi và phân tích làm rõ thêm những vấn đề
nêu trên.
ề xuất và tỷ lệ này không nên bị phá vỡ trong dài hạn. Ngay cả khi chưa tính đúng và đủ nợ công, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã xấp xỉ 65%, cao thứ hai ASEAN, chỉ sau Singapore có tỷ lệ nợ công lên đến 104,7% GDP. Tuy nhiên, phần lớn nợ công của Singapore là vay từ dân cư của quốc đảo này bằng chính đồng nội tệ với mức lãi suất rất thấp nên nợ công không chịu tác động rủi ro tỷ giá hay mất khả năng chi trả. Singapore cũng là quốc gia hiếm hoi của Châu á được đánh giá tín nhiệm ở mức cao nhất AAA (cùng với nền kinh tế Hồng Kông). So sánh với các quốc gia đang trong giai đoạn phát triển, nợ công/GDP của họ hầu hết thấp hơn mức 40%, các quốc gia này hầu hết có mức đánh giá tín nhiệm dao động từ A- đến AA+, trong khi mức tín nhiệm của Chính phủ Việt Nam hiện ở mức BB-. Điều này có nghĩa Việt Nam phải chi trả lãi cao hơn so với các quốc gia phát triển tương đương khi đi vay nợ và nợ phải trả hàng năm lớn hơn nhiều so với các quốc gia khác (vì quy mô nợ lớn hơn, mức lãi suất TPCP cao hơn). Kết quả là, nguồn thu từ thuế sẽ phải dành nhiều hơn cho trả nợ, giảm tỷ lệ tiền dành cho đầu tư phát triển (đầu tư cho giáo dục, y tế). Chi thường xuyên và chi trả nợ tăng nhanh khiến dư địa chi đầu tư phát triển bị hạn chế, tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong cơ cấu chi vẫn ở mức thấp và giảm qua các năm (tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi NSNN giảm từ 26,5% năm 2011 xuống còn 20% năm 2016. Bình quân giai đoạn 2011-2015 là 24,3%). Đây chính là nguyên nhân khiến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam khó bền vững, chưa tính đến hiệu quả đầu tư và các vấn đề về tham nhũng, thể chế yếu kém. 12 Kieåm tOAÙN Nôï cOâNg - NAâNg cAO hieäu quAû quAûN lyÙ vAø söû duïNg cAÙc KhOAûN Nôï cOâNg NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 117 - tháng 7/2017 f) Nợ ngoại tệ chiếm tỷ trọng lớn trong nợ công, điều này khiến nền kinh tế sẽ khó giữ ổn định trước các biến động của thế giới và khu vực Cơ cấu đồng tiền của danh mục nợ của Chính phủ tập trung vào một số đồng tiền chính bao gồm: đồng Việt Nam với tỷ trọng 55%; USD chiếm tỷ trọng 16%; Yên Nhật chiếm tỷ trọng 13% và Euro chiếm tỷ trọng khoảng 7%, còn lại là các đồng tiền khác.[9]. Quốc gia chủ nợ ODA lớn nhất của Việt Nam là Nhật Bản. Mặc dù Việt Nam được vay vốn ODA từ Nhật Bản với mức lãi suất cực thấp nhưng lại phải vay bằng đồng Yên (JPY). Đồng JPY liên tục tăng giá trong khi đồng VND mất giá, điều này khiến gánh nặng trả nợ ODA cho Nhật Bản là lớn, chi phí vay vốn ODA thực tế rất cao. Như vậy, các biến động kinh tế Mỹ, các nền kinh tế lớn, động thái lãi suất của FED hoặc đồng USD tăng giá sẽ tác động mạnh lên áp lực trả nợ công hàng năm của Việt Nam. Nền kinh tế khó giữ ổn định trước các biến động kinh tế khu vực và thế giới. g) Nợ ngoại tệ chiếm tỷ trọng lớn trong nợ công của Việt Nam Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ khó tiếp cận hơn với ODA, Việt Nam chỉ có thể phát hành TPCP với mức lãi suất cao để có tiền đảo nợ và bù đắp bội chi. Việt Nam hiện đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, nguồn vốn vay ưu đãi viện trợ phát triển ODA đang giảm dần. Theo kế hoạch, tháng 7/2017, World Bank sẽ chấm dứt cho Việt Nam vay ODA. Đến 2019, Ngân hàng Phát triển châu á (ADB), các nhà tài trợ song phương cũng không còn dành ưu đãi ODA cho Việt Nam. Điều này có nghĩa, để có tiền đảo nợ và bù đắp bội chi, Việt Nam buộc phải phát hành trái phiếu trong nước và quốc tế với mức lãi suất cao do tín nhiệm Chính phủ ở mức quá thấp (BB-). Không chỉ rủi ro nợ công tăng mà tăng trưởng sẽ tiếp tục chịu tác động tiêu cực hơn. Một số nền kinh tế quy mô nợ công lớn nhưng rủi ro thấp do tín nhiệm Chính phủ cao, lãi suất thấp, vay bằng đồng nội tệ và chủ yếu là vay nợ từ người dân trong nước. Bản thân các quốc gia này cũng là chủ nợ lớn của thế giới. h) Quản lý nợ công còn phân tán, thiếu cơ chế phối hợp Hệ lụy của việc này là công tác tổng hợp báo cáo, quyết toán, thống kê số liệu nợ công chưa kịp thời, đầy đủ, chính xác theo quy định dẫn đến việc Bộ Tài chính tổng hợp nợ công có thể chưa đầy đủ các khoản nợ Chính phủ, chính quyền địa phương. Đặc biệt việc kiểm toán để xác định trách nhiệm vay, trả nợ, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay, bố trí vốn đối ứng gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. 3.2. Xác định mức an toàn nợ công Hiện vẫn chưa có bộ tiêu chuẩn chung về ngưỡng an toàn nợ công mà có thể áp dụng đối với tất cả các quốc gia. Việc các chỉ tiêu nợ công của từng nước cần được xác định trên cơ sở các yếu tố như tình hình kinh tế vĩ mô, khả năng trả nợ, hiệu quả sử dụng nguồn vốn Để hỗ trợ cho các nước trong quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về nợ công, nhất là ở các nước đang phát triển, các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới cũng đã xây dựng và công bố một số chỉ dẫn cơ bản về quản lý nợ công, song những chỉ dẫn này cũng chỉ dừng ở mức tham khảo. Theo thông lệ quốc tế, ngưỡng nợ công tối ưu (nhằm đảm bảo nợ công là động lực giúp tăng trưởng kinh tế) thông thường cho các nước phát triển là 90%, các nước đang phát triển có nền tảng tốt là 60% và có nền tảng kém là 30 - 40%. Vì vậy, mức ngưỡng nợ công/GDP được Quốc hội đề ra 65% là phù hợp với thông lệ quốc tế; và việc vượt ngưỡng tối ưu có thể tiềm ẩn rủi ro. Nếu chỉ số nợ công/GDP của một quốc gia thể hiện quy mô nợ công so với quy mô của nền kinh tế thì chỉ số nợ công trên bình quân đầu người thể hiện trung bình mỗi người dân của quốc gia này đang gánh bao nhiêu nợ. Để đánh giá mức độ bền vững nợ công cũng như các rủi ro liên quan, bên cạnh quy mô nợ công trên GDP, cần phải sử dụng các chỉ tiêu khác như nghĩa vụ trả nợ hàng năm so với GDP và thu ngân sách; chi trả lãi vay so với chi thường xuyên; tỷ lệ trả lãi vay so với dư nợ; tỷ lệ giữa vay mới so với số trả nợ cũ; nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu ngân sách. Hiện vẫn chưa có bộ tiêu chuẩn chung về ngưỡng an toàn nợ công mà có thể áp dụng đối với tất cả các quốc gia. Các chỉ tiêu nợ công của từng 13NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 117 - tháng 7/2017 nước cần được xác định trên cơ sở các yếu tố như tình hình kinh tế vĩ mô, khả năng trả nợ, hiệu quả sử dụng nguồn vốn và tính toán các rủi ro được đề cập ở trên để cân nhắc mức an toàn nợ công phù hợp. Kinh nghiệm của các nước cũng đã cho thấy, quản lý nợ công hiệu quả, an toàn không chỉ giới hạn ở việc duy trì mức nợ công trong phạm vi các chỉ số (các ngưỡng) nợ đề ra. Điều quan trọng là phải đánh giá được mức độ rủi ro liên quan đến danh mục nợ công để chủ động có biện pháp đối phó thích hợp, có thể là rủi ro tỷ giá hoặc lãi suất (rủi ro thị trường) hay rủi ro về kỳ hạn, rủi ro thanh khoản, rủi ro tái tài trợ nợ. Các cuộc khủng hoảng tài chính gần đây cho thấy yếu tố rủi ro kỳ hạn là rất quan trọng đối với các nước đang phát triển. Các quốc gia có cơ cấu về thời hạn vay không phù hợp, nếu khi gặp biến động sẽ không thể quay vòng nợ, do đó rất dễ rơi vào vòng xoáy của khủng hoảng nợ. 4. Các kiến nghị và đề xuất Để quản lý và sử dụng hiệu quả và đảm bảo an toàn nợ công, chúng tôi có các kiến nghị sau đây: Thứ nhất, cần xác định rõ phạm vi nợ công và quản lý nợ công phù hợp với thông lệ quốc tế. Chúng tôi kiến nghị nên cần đưa nợ của DNNN, nợ NHNN, nợ của tổ chức bảo hiểm xã hội và ASXH vào danh mục nợ công.[1] Thứ hai, cần xác định rõ vai trò, nhiệm vụ, chức năng của các cơ quan quản lý nợ công; đồng thời đảm bảo cơ chế phối hợp trong quản lý nợ công linh hoạt và hiệu quả. Nên tập trung các chức năng quản lý nợ công vào một đơn vị, tổ chức đầu mối nhằm nâng cao trách nhiệm giải trình và đối với nước ta nên là Bộ Tài chính. Thứ ba, quản lý trần nợ và ngưỡng nợ chỉ mới là điều kiện cần để kiểm soát được an toàn nợ công. Cần có thêm các chỉ tiêu chất lượng nợ công, vấn đề then chốt nhất trong quản lý an toàn nợ công là quản lý chặt chẽ nợ vay nước ngoài và các rủi ro. Tỷ lệ nợ công vay nước ngoài cao thì nguy cơ mất khả năng thanh toán và mất chủ quyền tài chính quốc gia càng cao. Thứ tư, cần quản lý và giám sát rủi ro thông qua các chỉ số giám sát nợ công theo chuẩn mực quốc tế; quản lý mục đích và hiệu quả sử dụng nợ công, trong đó chỉ được sử dụng nợ công vào các mục đích của chính sách công và lĩnh vực tài chính công thực sự cần thiết và có hiệu quả; Thứ năm, tăng cường công khai, minh bạch thông tin về nợ công định kỳ hàng tháng, hàng năm, quy định rõ trách nhiệm của người công bố thông tin. Tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, tăng cường hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước để kiểm tra, đánh giá nợ công và quản lý nợ công cả về mức độ tin cậy, cả về tính tuân thủ, tính kinh tế, tính hiệu quả của việc vay, quản lý nợ vay, chi phí vay và trả nợ tiền vay. Thứ sáu, thực hiện đồng bộ, hiệu quả chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bố trí hợp lý quan hệ tích lũy và tiêu dùng, đảm bảo quy mô đầu tư xã hội đạt 32 - 34% GDP, bội chi NSNN dưới 4% GDP tạo cơ sở tăng trưởng kinh tế ở mức cao hơn hiện nay. Nâng cao kỷ luật kỷ cương quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Đình Hòa: (Chủ nhiệm) Đề tài NCKH Cấp bộ 2011,UBTC-NS QH Giám sát và kiểm toán nợ công ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp. 2. Nguyễn Đình Hòa: Khủng hoảng nợ công tại châu Âu và bài học cho Việt Nam. Tạp chí Khoa học Số 2 tháng 2 năm 2013. 3. Nhật Bản có tỷ lệ nợ công cao nhất thế giới.19.7.2017. 4 . h t t p : / / v n e c o n o m y. v n / t h e . . . / t h e - g i o i - d a n g - n o - n h i e u - c h u a - t u n g - thay-20170629123648394. 5. https://www.imf.org/external/pubs/ft/gfs/ manual -IMF (2001). Government finance statistics manual 2001. 6. https://www.economist.com/ 7. 30/5/2017 8. Luật Quản lý nợ công 2009 9. tttc/r/o/ttsk/ttsk_chitiet?dDocName 10.
File đính kèm:
- lam_ban_ve_no_cong_va_quan_ly_hieu_qua_no_cong_hien_nay_tai.pdf