Khuynh hướng văn hóa bình dân và văn hóa bác học trong ngôn ngữ Truyện Kiều

Tóm tắt: So với nhiều truyện Nôm cùng thể tài khác, ngôn ngữ Truyện Kiều dường như là một thế

giới đầy hương sắc, là phức thể đa dạng và phong phú. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt qua toàn bộ ngôn ngữ

Truyện Kiều và làm nên giá trị vĩ đại của tác phẩm là sự kết hợp tuyệt diệu giữa hai khuynh hướng

bình dân và bác học trong ngôn ngữ tác phẩm. Đây có thể xem là những bước khám phá có tính đặc

trưng về ngôn ngữ Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá. Thông qua hệ thống ngữ liệu văn hóa, một số

nhà nghiên cứu bước đầu đã khám phá nội dung, tư tưởng, những sáng tạo, đặc trưng phong cách

văn hoá của đại thi hào Nguyễn Du.

pdf8 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 588 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Khuynh hướng văn hóa bình dân và văn hóa bác học trong ngôn ngữ Truyện Kiều, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
g phải là bắt chước 
một cách nô lệ, dù cho nhìn bên ngoài khó 
lòng bảo là không máy móc...” [4, tr.43]. 
Sự giao lưu và tiếp xúc văn hóa, ngôn 
ngữ Việt - Hán, nếu trong giai đoạn đầu tuy 
mang tính cưỡng chế, áp đặt, nằm trong âm 
mưu đồng hóa văn hóa thì ở những giai 
đoạn sau lại mang tính chủ động, tích cực. 
Các triều đại của Việt Nam ở thời kỳ tự chủ 
đã xây dựng hệ thống chính trị, giáo dục, 
học thuật, thi cử... theo mô hình của phong 
kiến phương Bắc. Do đó, về văn hóa, Việt 
Nam đã tích lũy được những kinh nghiệm 
từ trong văn hóa Trung Hoa. 
Lịch sử văn học trung đại Việt Nam đã 
vận hành, phát triển trong một hoàn cảnh 
đặc biệt, vừa ly tâm, vừa hướng tâm đối với 
văn học, văn hóa cổ điển Trung Hoa. Đó là 
quá trình vừa tiếp thu học tập nhưng cũng 
đồng thời sáng tạo, Việt hóa và bồi đắp 
những đặc điểm mang tính dân tộc ngày 
càng rõ nét hơn. Do đó, có thể nói, giao lưu 
văn hóa, ngôn ngữ Việt - Hán và đặc biệt là 
quá trình hình thành ngôn ngữ văn chương 
thời trung đại đã để lại một dấu ấn đậm nét 
trong các tác phẩm văn học cổ điển Việt 
Nam, cụ thể đó là hai hệ thống ngữ liệu 
Hán Việt và thuần Việt trong ngôn ngữ 
nghệ thuật thể loại truyện thơ Nôm và 
Ngâm khúc Hán Nôm của văn học cổ điển 
Việt Nam. Giá trị thẩm mỹ của hệ thống 
ngữ liệu (là những dẫn chứng, dẫn liệu 
ngôn ngữ, nó có thể được trích dẫn, khai 
thác phục vụ cho quá trình nghiên cứu về 
nội dung, nghệ thuật của một tác phẩm) có 
nguồn gốc từ văn hóa bác học, văn hóa, văn 
chương cổ điển Trung Hoa đã ảnh hưởng 
trực tiếp đến ngôn ngữ truyện thơ Nôm bác 
học. Nguyễn Đức Tồn trong Đặc trưng văn 
hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy gọi 
các ngữ liệu ấy là “những hiện tượng văn 
hóa đặc tồn” [9, tr.215] hay “các đơn vị đặc 
văn hóa” [9, tr.267]. Do đó, không chỉ các 
nhà Ngữ học quan tâm và hứng thú, mà các 
nhà Ngữ văn học cổ điển cũng rất chú ý đến 
hệ thống các đơn vị mang hàm lượng văn 
hóa độc đáo này. Những ngữ liệu ấy được 
xem như là một dạng tín hiệu thẩm mỹ đặc 
thù, nó được sử dụng trong các thi phẩm 
như một phương thức đặc trưng biểu đạt 
những tình cảm trữ tình của cá nhân, tạo 
nên một thế giới mở đặc thù theo thi pháp 
văn học trung đại Việt Nam. Nghệ thuật sử 
dụng hệ thống ngữ liệu này vừa đảm bảo 
tính quy phạm, chuẩn mực có tính ước lệ, 
phản ánh đặc trưng thể loại, vừa thể hiện 
chiều kích sâu rộng của văn hóa cổ điển, độ 
uyên thâm và khả năng khái quát đời sống 
của các tác giả văn học cổ Việt Nam. 
Thời trung đại, do quan niệm sáng tác 
chịu ảnh hưởng trực tiếp của Nho giáo, văn 
học được sáng tác với mục đích chính trị và 
giáo huấn về cách ứng xử trong cuộc sống, 
nên ngôn ngữ văn chương thường mang âm 
hưởng trang trọng để tránh sự dung tục bình 
thường. Do đó, việc sử dụng những hình 
thức đặc thù của ngữ liệu văn hóa đã tạo 
nên một trường thẩm mỹ đặc trưng của các 
tác phẩm văn học cổ. Đó là hệ thống từ ngữ 
đã được dẫn dụng một cách khá công phu, 
linh hoạt và đa dạng trong các tác phẩm 
truyện Nôm tiêu biểu và đặc biệt là Truyện 
Kiều. Bàn về vấn đề này, Đoàn Ánh Loan 
trong Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển 
cố đã khẳng định, hệ thống ngữ liệu (cụ thể 
ở đây là điển cố, thi văn liệu Hán học) trong 
ngôn ngữ truyện Nôm đã “được các tác giả 
truyện thơ xếp đặt ở câu bát nhiều hơn câu 
lục, tuy không quá chênh lệch, nhưng cũng 
cần được ghi nhận như một đặc điểm... 
nhưng bao giờ giữa chúng cũng có một sự 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 
96 
kết nối chặt chẽ nhằm thể hiện cao nhất ý 
nghĩa của nó” [5, tr.56]. 
Những tiếp nhận và ảnh hưởng của văn 
hóa bác học, văn hóa Hán đã góp phần hình 
thành nên tính chất quan phương, uyên nhã - 
một đặc trưng thẩm mỹ của ngữ liệu bác 
học. Đặc trưng này làm nảy sinh những 
hình tượng, biểu tượng, cách diễn đạt cố 
định và mang tính truyền thống, phân định 
thứ bậc, tạo nên vẻ lộng lẫy và đậm tính 
nghi thức. Chẳng hạn, nhà thơ đã vận dụng 
một chuỗi các thuật ngữ, ngữ liệu có nguồn 
gốc từ binh gia, chính trị, có tính nguyên 
tắc cao để diễn tả các biến cố, sự kiện có 
tính nghiêm trang. Đoạn thơ “báo ân báo 
oán” của Thuý Kiều là một ví dụ tiêu biểu, 
tác giả đã sử dụng một hệ thống ngôn ngữ 
miêu tả đặc thù của Quân lễ [8, tr.224], một 
trong Ngũ lễ được quy định trong Thượng 
thư và Chu lễ, cụ thể là Cát lễ (quán, hôn), 
hung lễ (tang, tế), quân lễ, tân lễ (lễ tiếp 
khách) và gia lễ (lễ mừng). Đó là những từ 
ngữ thường dùng trong quân sự như hiệu 
duyệt, sưu thú, xuất sư: 
“Quân trung gươm lớn giáo dài/Vệ trong 
thị lập, cơ ngoài song phi/Sẵn sàng tề chỉnh 
uy nghi/Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp 
sân/Trướng hùm mở giữa trung quân/Từ 
công sánh với phu nhân cùng ngồi/Tiên 
nghiêm, trống chửa dứt hồi/Điểm danh 
trước dẫn chực ngoài cửa viên”. 
Vệ, cơ là những đơn vị quân chính được 
quy định trong quân ngũ thời phong kiến. 
Bác đồng (hay còn gọi là đồng bác, đồng 
lao, đây là những bộ gõ, được dùng để tạo 
âm thanh hùng tráng khi xuất binh), tinh kỳ 
là hệ thống cờ phướn được dùng trong đi 
sứ, nghi vệ thiên tử xuất hành hoặc nghi 
thức xuất binh của nguyên soái hoặc đại 
tướng. Trướng hùm (hay còn gọi là hổ 
trướng), cửa viên (viên môn) là địa điểm 
bản doanh của chủ soái, có bố trí hổ ỷ (ghế 
da hổ), trung quân là một trong ba cánh 
quân (tiền, trung, hậu hoặc tả, trung, hữu). 
Với những ngữ liệu đặc trưng ấy, tác giả 
vừa khắc hoạ thành công khung cảnh 
nghiêm cẩn, hào tráng, uy nghi của “phiên 
toà tình đời”, vừa đáp ứng được nhu cầu 
nghệ thuật chuẩn quy phạm. 
Nguyễn Du miêu tả khung cảnh tài tử 
giai nhân tao ngộ qua sự xuất hiện của Kim 
Trọng trong buổi Thanh minh: 
“Tuyết in sắc ngựa câu giòn/Cỏ pha mầu 
áo nhuộm non da trời”. “Hài văn lần bước 
dặm xanh/Một vùng như thể cây quỳnh 
cành dao” 
Một bức tranh thiên nhiên và khung cảnh 
lễ hội được nhà thơ phác thảo qua những 
hình ảnh văn hoá rất đặc trưng của Trung 
Hoa, Việt Nam. Con người trong tiết Thanh 
minh đi sửa phần mộ và tìm đến những bóng 
hình quá khứ tạo nên một dạng thức của 
không gian hồi cố trong tâm cảm. Khung 
cảnh thiên nhiên diễm lệ ấy cũng chính là cái 
cớ để nhà thơ miêu tả một bức chân dung 
hoàn chỉnh về người nho sỹ tài hoa theo 
quan niệm Nho gia. Có lẽ, ở đoạn thơ này, 
Nguyễn Du đã chọn bức tranh thanh minh 
làm nền cho bức truyền thần của Kim Trọng 
như một sự tương tác nghịch chiều. Vẻ đẹp 
thiên nhiên trở nên thơ mộng hơn nhờ có 
hình ảnh con người và hình ảnh con người 
trở nên sinh động hơn nhờ có thiên nhiên 
vậy. Thiên nhiên là chuẩn mực, con người là 
điểm son. Tất cả những ngữ liệu miêu tả 
Kim Trọng đều gắn liền với màu xanh: hài 
văn lần bước dặm xanh, cỏ pha màu áo 
nhuộm non da trời, một vùng như thể cây 
quỳnh cành dao... Đông - Xuân - Thanh - 
Tuổi trẻ - Tình yêu là những từ mang tâm 
thức văn hoá, dễ liên tưởng qua lại, chính 
điều đó đã mang lại cho đoạn thơ và ngôn 
ngữ tự sự tác giả đậm chất trữ tình, nhẹ 
nhàng, có chiều sâu triết lý, văn hoá. Đồng 
thời, cách thức liên tưởng ấy cũng tạo nên 
Võ Minh Hải 
97 
chuỗi thanh âm phức điệu, những hoà điệu 
mang tính ngữ cảnh của thể loại truyện 
Nôm, cảm thức văn hoá cá nhân tác giả. Bản 
thân nó (tức thanh âm phức điệu) có thể tạo 
nên một tiềm năng ngữ nghĩa mà mỗi độc 
giả khi tiếp nhận sẽ tự tái tạo cho mình 
những mô thức tái hiện riêng biệt, tuỳ thuộc 
vào “tầm đón nhận” và chiều sâu văn hoá 
của mỗi cá nhân. 
Như vây, hệ thống ngữ liệu văn hoá bác 
học chính là những tín hiệu thẩm mỹ đã 
được mã hoá, nó phản ánh một cách sâu sắc 
nhất bản lĩnh, trình độ, chiều sâu văn hoá 
của tác giả. Đồng thời, hệ thống tín hiệu 
này cũng thách thức, kêu gọi khả năng “giải 
mã văn hoá” của người tiếp nhận. Vì thế, 
khi khảo sát hệ thống ngôn ngữ tác phẩm 
văn học cổ điển Việt Nam, nhất là truyện 
thơ Nôm bác học, hệ thống ngữ liệu bác 
học này không chỉ là những yếu tố tạo nên 
sự hấp dẫn, mà còn là những rào cản nghệ 
thuật đối với người đọc. Sự trang bị cũng 
như những hiểu biết về văn hoá cổ điển 
truyền thống Đông phương luôn là những 
điều kiện cần thiết. 
4. Kết luận 
Hệ thống ngữ liệu văn hóa trong Truyện 
Kiều khá đa dạng và phong phú, chịu sự tác 
động của bối cảnh văn hóa, tư duy, tâm 
thức văn hóa, đặc trưng thẩm mỹ của văn 
hóa Trung Hoa và Việt Nam. Dưới áp lực 
của những tác động ấy, ngữ liệu đã trở 
thành những tín hiệu thẩm mỹ đặc thù, là 
những uyển ngữ, điển chương giàu sức khái 
quát và đậm tính triết học. Hệ thống ấy đã 
trở thành công cụ thẩm mỹ của văn nhân thi 
sĩ trung đại, nó không chỉ chuyển tải những 
nội dung thẩm mỹ, suy tưởng về nghệ thuật, 
về cuộc sống, mà còn thể hiện một cách sâu 
sắc về tầm văn hóa, độ thâm thuý và sở học 
của các tác gia văn học. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Trịnh Bá Đĩnh (2013), Lịch sử lý luận phê bình 
văn học Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
[2] Võ Minh Hải (2018), “Tiếp nhận và ảnh hưởng 
của văn hóa bác học và văn hóa bình dân trong 
ngôn ngữ Truyện Kiều”, Tạp chí Thông tin 
Khoa học xã hội, số 7. 
[3] Nguyễn Thúy Hồng (1995), Từ ngữ Việt và Từ 
ngữ Hán Việt trong ngôn ngữ nghệ thuật 
Truyện Kiều, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường 
Đại học Sư phạm 1 Hà Nội. 
[4] Lê Đình Kỵ (1986), “Sắc thái bác học, sắc thái 
bình dân và tính thống nhất của ngôn ngữ Truyện 
Kiều”, Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn 
ngữ phương Đông, Viện Ngôn ngữ học - Uỷ ban 
Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội. 
 [5] Đoàn Ánh Loan (2003), Điển cố và nghệ thuật 
sử dụng điển cố, Nxb Đại học Quốc gia thành 
phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh 
[6] Phan Ngọc (1998), Tìm hiểu phong cách 
Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Thanh 
niên, Hà Nội. 
[7] Phạm Đan Quế (2013), Thế giới nghệ thuật 
Truyện Kiều, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 
[8] Vân Trung Thiên (2006), Lễ Nghi, Bắc Kinh 
Văn nghệ xuất bản xã. 
[9] Nguyễn Đức Tồn (2001), Đặc trưng văn hóa - 
dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, Nxb Đại học 
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 
98 

File đính kèm:

  • pdfkhuynh_huong_van_hoa_binh_dan_va_van_hoa_bac_hoc_trong_ngon.pdf