Không gian núi rừng trong văn xuôi Ngọc Giao

TÓM TẮT

Trong văn xuôi Ngọc Giao, không gian núi rừng vừa là không gian bối cảnh vừa là đối tượng nghệ

thuật ấn tượng gắn với tư duy thẩm mĩ văn xuôi lãng mạn cùng những đặc trưng và tình cảm về

một miền đất mới. Không gian ấy đã góp phần bổ sung những giá trị cho tác phẩm và khắc họa số

phận tính cách của nhân vật nhưng chưa được quan tâm nghiên cứu. Qua việc thống kê, khảo sát

và phân tích các giá trị văn chương của Ngọc Giao, bước đầu chúng tôi nhận thấy: Dưới sự cảm

nhận của các nhân vật trong tác phẩm, núi rừng là những vùng đất lạ lẫm và không quen sống;

hoang sơ mà thanh nhã, trong lành, tươi tắn; không gian của những cuộc chạy trốn thực tại bất

hạnh, chuyến ngao du tìm hạnh phúc mới của các nhân vật; không gian gần gũi được dần cảm mến

với tình người chất phác hồn hậu và nâng đỡ con người trong những hoàn cảnh bất hạnh.

pdf6 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 506 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Không gian núi rừng trong văn xuôi Ngọc Giao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
gười được an yên 
nhưng vẻ cô tịch càng làm Hạnh trong tác 
phẩm Cầu sương thêm rối bời chua xót, thổn 
thức và mù quáng với việc trốn chồng đi theo 
người tình Hải - một kẻ si tình lợi dụng vơ vét 
tài sản. Nàng biết đâu trong cái "nắng tràm 
đốt cỏ đồi, lúa ruộng. Nắng rợn lên thành đợt 
lửa bay lung linh phá vỡ cả thinh không. 
Đường đá gan gồ sống lưng trâu quằn mình 
như con trăn rừng giãy chết mỗi lần có trận 
gió tây bốc bụi. Đó đây, trên chặng đường xa, 
mấy quán nước không người thấp như chuồng 
lợn, bám chặt vào đất núi, ngay mái cỏ tranh 
cũng bốc khói, lửa nắng như sắp thiêu thành 
tro" [3], chồng nàng đang đạp xe đi tìm nàng. 
"Hết leo dốc đến đổ dốc... đồi trụi nối nhau 
trùng điệp chạy mênh mông tới chân trời", 
Cung bồi hồi nhớ vợ, nhớ quê. Rồi Cung 
cũng hiểu được chuyện và đưa Hạnh chạy 
trốn tội lỗi với một lòng bao dung độ lượng. 
Cái lạnh lẽo, heo hút của núi rừng dần xua tan 
đi bởi tình người cao thượng. "Trời hửng 
nắng. Nắng rờn rợn trong gió bấc rọi xuống 
những dòng nước suối lũ sáng lấp lóa một 
màu bạc pha vàng. Hôm nay, chợ Mường họp 
Phiên ngày chẵn. Những màu áo chàm xanh 
điểm lác đác trên các nẻo đường đất đỏ lượn 
quanh co theo những hàng cây lim, cước mọc 
kín dãy đồi cao trùng điệp. Sơn nhân vội vã 
gánh hàng xuôi chợ, con địu ngang lưng, để 
rồi vội vã trở về với nương cày dở luống" [3]. 
Đó là sự đổi thay của cảnh vật và cũng là sự 
mong muốn, khát khao thay đổi cuộc sống sẽ 
ấm áp, sum vầy, đoàn tụ. 
Núi rừng không chỉ là không gian với nỗi lo 
rừng thiêng nước độc, mà cũng có lúc hiện 
lên như bức tranh đời thường đầy màu sắc 
của sức sống. Và có cả những khung cảnh 
đẹp hoang dã nhưng lãng mạn: "Ông Lâm rẽ 
một cành cây hoa trắng như hoa mai cho khỏi 
vướng vào mình Hạnh trên lưng ngựa. Cành 
cây rung động, rắc hoa xuống đầy mái tóc và 
tà áo. Nàng lỏng tay cương, nhặt mấy bông 
hoa ngàn rắc xuống đường" [3]. Cuộc sống 
ấm tình người cũng nhen nhóm lên những hi 
vọng mới. "Đàn én đã bay về rừng Việt Bắc, 
một sớm đưa thoi trong nắng xuân, trên 
những nương ngô đỗ và vườn cây của khu 
trên sân trại. Bờ rào nứa ken cánh sẻ, loài dây 
leo mướp, mồng tơi, đậu ván bám đầy phủ kín 
như bức thành vững chắc bao quanh khu trại 
rộng”. Nhưng tội lỗi khó gột rửa, những ám 
ảnh vẫn lẩn quất trong tâm hồn Hạnh và 
Cung. "Chim rừng thao thức kêu quanh lớp 
nhà chòi im ngủ trong tiếng thác đổ hồi đêm 
quạnh. Ánh sao không lọt được xuống nền lá 
kim cổ thụ giao kết vào nhau thành một bức 
trần cao bát ngát" [3]. Một sự thao thức, bế 
tắc vẫn tràn ngập tâm hồn Cung để rồi sau đó 
dẫn đến cái chết bi thảm của anh. Cái chết 
đầy tủi sầu của chồng khiến Hạnh càng buồn 
hơn về số kiếp của mình trên con đường trở 
về phố thị. Những hình ảnh cuối cùng trước 
cửa rừng càng làm cô thấy mình thêm lạc 
lõng."Trên những sườn núi gan gà nhuộm 
nắng, đã thấy thưa thớt vài túp nhà cỏ mới. 
Một hai bóng áo tràm theo trâu gày đeo mõ, 
ngẩn ngơ nhìn bụi cuốn sau xe ngựa đang 
rong ruổi về cuối sơn thôn xa tắp... Khói ở 
nhà tranh bám chặt vào vách núi bên rừng 
quạnh, vơ vất vương vào nắng tháng ba" [3]. 
Lãng đãng không gian sơn thôn vừa quạnh 
hiu vừa cô quạnh, Hạnh nhớ chồng với một 
nỗi xót xa ân hận dâng lên. Núi rừng ở đây vì 
thế cũng mang nặng tình người khi buồn, cô 
đơn, bế tắc, lạc lõng, lúc dằn vặt, tâm trạng 
mông lung. 
Xa mẹ già theo lời vun đắp giới thiệu của anh 
trai, Trâm trong Quán gió lên miền ngược 
cùng chồng. Vượt qua đường dốc thăm thẳm, 
suối đổ ầm ầm, "núi rừng u uất dựng cao chót 
Nghiêm Thị Hồ Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 39 - 44 
 Email: jst@tnu.edu.vn 43 
vót kẹp con sông dài vào giữa... Thỉnh thoảng 
vài con khỉ chuyền cành cây ở ven bờ kêu inh 
ỏi đuổi theo thuyền. Trâm lắng nghe tiếng 
nước róc rách vỗ mạn thuyền, nhìn vài cánh 
hoa cánh lá trôi xuôi" [4]. Trong bốn bề sông 
nước, rừng, cây hoang vu, tiếng vượn hú dài 
thảm sầu, Trâm khôn nguôi nhớ mẹ, nhớ 
đồng bằng và thương thân mình lênh đênh nơi 
đất khách quê người vì nhắm mắt đưa chân 
lấy người tốt nhưng chưa phải người yêu. 
Khung cảnh núi rừng trong thiên truyện như 
càng tô đậm thêm sự cô đơn, lạc lõng của 
Trâm với tình yêu không có hậu, Tiến chồng 
cô đã hi sinh khi tình yêu còn đang dang dở 
chưa như ý. Sự an ủi của người chú dân tộc 
của Tiến phần nào vỗ về cho nỗi dày vò, đau 
xót trong lòng cô nhưng nỗi nhớ nhà, nhớ mẹ, 
nỗi ân hận băn khoăn vẫn choán ngợp lòng cô 
khi trở về Quán gió. Và rừng núi hiện lên 
mênh mông, kì bí như tô rõ thêm cho sự phức 
tạp ngổn ngang của lòng người con gái đa 
đoan giữa dòng đời loạn lạc. Những bất ngờ, 
những lạ lẫm, những bí ẩn và mâu thuẫn 
không dễ gì tháo gỡ của Trâm như bao trùm 
lên bầu không khí và cảnh vật nơi rừng núi 
quê chồng cô. Như vậy, không gian miền núi 
trong những trang văn Ngọc Giao thường 
hiện lên qua cái nhìn, cảm nhận của những 
người nông dân vốn sống lâu đời ở đồng 
bằng, hoặc những trí thức tiểu tư sản sống ở 
thành thị. Lần đầu lên với núi rừng, xa quê 
hương môi trường sống quen thuộc, núi rừng 
hiện lên trước mắt họ đầy lạ lẫm với nhiều lo 
ngại. Quang cảnh núi rừng với những đặc 
trưng suối sâu, đèo cao, núi đồi trùng điệp, 
cây cối um tùm, con người ý nhị rụt rè nhưng 
chân tình, tốt bụng, không gian hiu quạnh, 
vắng vẻ. Từ những lo ngại, cô đơn ban đầu 
khi đi qua và sống ở vùng trung du, các nhân 
vật dần hòa hợp và cảm mến với đất và người 
nơi đây. Tuy nhiên, các nhân vật dù là phải 
chạy trốn thực tại cuộc sống hay cưỡng ép 
phải ra đi đến với núi rừng thì họ vẫn luôn 
luôn nhớ về quê và đều tạm biệt núi rừng để 
về với những nơi mình đã từng gắn bó. 
Không gian núi rừng với những nét đẹp 
hoang sơ, giản dị và khó khăn của nó hiện lên 
chân thật trong suy nghĩ khách quan của các 
nhân vật. Núi rừng rộng lớn giang vòng tay 
đón chào họ, là nơi họ hi vọng sẽ có một sự 
ẩn nấp tâm hồn với những niềm vui mới 
nhưng cũng là nơi càng tôn thêm cho nhân vật 
nỗi cô đơn, buồn khổ đến bi thương. Rừng 
núi cũng là chứng tích cho những thăng trầm 
của lịch sử kháng chiến chống kẻ thù và cuộc 
sống, số phận của các nhân vật. 
Bên cạnh đó, một số tác phẩm viết cho thiếu 
nhi của Ngọc Giao cũng đã đưa thiên nhiên 
núi rừng đến gần hơn với con người. Rừng 
núi, hang sâu cùng những con vật nghĩa tình 
được thi vị hóa trở thành nơi trú ẩn, nuôi sống 
con người trong những hoàn cảnh nguy khốn. 
Trong rừng sâu, hang rậm có những con vật 
tưởng chừng như ác nghiệt đáng sợ lại là 
những con thú nghĩa tình, biết làm việc tốt. 
Thiên nhiên và con người, người và vật như 
xích lại gần nhau với những bài học thiên 
nhiên cho trẻ thật tự nhiên, hiếu kì và hấp 
dẫn. Nhà văn đã giáo dục trẻ một cách tự 
nhiên mang âm hưởng truyện cổ tích với 
thông điệp: Sự cảnh báo con người đối xử tệ 
với thiên nhiên, muông thú ắt sẽ chịu hậu quả 
khôn lường và nếu ứng xử có nhân với loài 
vật, thiên nhiên sẽ được đáp đền xứng đáng. 
Tập truyện Úm ba la, Hang thuồng luồng là 
những tác phẩm như thế. 
Trong dòng văn xuôi những năm nửa đầu thế 
kỉ XX, Ngọc Giao không phải là nhà văn có 
đóng góp nổi bật khi viết về đề tài miền núi 
nhưng những nét phác thảo, gợi tả về không 
gian núi rừng trong văn xuôi của ông đã góp 
phần bổ sung thêm cho văn học thời kì này 
những trang văn ấn tượng về một dòng văn có 
lối đi riêng độc đáo. Các tác giả cùng thời như 
Triệu Luật, Lan Khai, Lê Văn Trương... đã có 
những tác phẩm đi sâu phản ánh khung cảnh 
miền núi với cuộc sống muôn màu, sức sống 
mãnh liệt và nhiều điều bí ẩn, hấp dẫn. Các 
nhà văn giai đoạn sau như: Vi Hồng, Triều 
Ân, Hà Lâm Kì, Cao Duy Sơn, Đỗ Bích 
Thúy... cũng tìm thấy ở mảnh đất núi rừng 
những mạch nguồn văn hóa và không gian 
Nghiêm Thị Hồ Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 39 - 44 
 Email: jst@tnu.edu.vn 44 
cuộc sống nơi đây với năng lực khám phá và 
tưởng tượng phong phú. Và phần lớn các nhà 
văn đã đi sâu khai thác, tái hiện không gian 
nghệ thuật này qua cảm quan của nhân vật là 
những con người sinh ra, lớn lên và gắn bó với 
cuộc sống nơi này với cái nhìn quen thuộc đi 
liền với cuộc đời họ. Với Ngọc Giao, không 
gian núi rừng hiện lên không thuần nhất. 
Không gian ấy gắn với số phận thăng trầm của 
các nhân vật đến từ những miền đất khác - 
vùng đồng bằng và mang trong mình sự phức 
tạp trong đời sống tâm lí. Điều đó khiến cho 
núi rừng không chỉ là bối cảnh sống mới với 
nhiều dụng ý nghệ thuật miêu tả khắc họa tâm 
trạng, số phận nhân vật mà còn được nhìn nhận 
một cách đa chiều và khách quan. Không gian 
này không phải là không gian độc nhất và 
chính yếu trong mỗi tác phẩm của Ngọc Giao 
nhưng lại là không gian nghệ thuật góp phần 
tương hỗ, bổ trợ để biểu hiện và làm nổi bật 
những giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Không 
gian ấy luôn vận động qua cái nhìn hướng tới 
một thế giới mới trong cảm quan của hệ thống 
nhân vật mang nặng tính trữ tình, lãng mạn 
nhưng giàu tính hiện thực. 
3. Kết luận: 
Dù những trang văn miêu tả không gian núi 
rừng của Ngọc Giao không nhiều, ông cũng 
không có những cái nhìn thật sự sắc sảo về 
không gian này như các nhà văn đường rừng 
như Triệu Luật, Lan Khai, Lê Văn Trương 
nhưng những trang viết về không gian miền 
núi của ông đã góp phần cho việc làm rõ tâm lí 
và số phận nhân vật. Mỗi khung cảnh núi rừng 
hiện lên dù thoáng qua nhưng tinh tế như một 
bức họa có chiều sâu của tâm hồn và cảnh vật. 
Và dường như, từ những trang văn viết về núi 
rừng của ông cũng đã ít nhiều phản ánh một 
cảm quan sinh thái- sự trân trọng, cảm mến với 
thiên nhiên và mong muốn con người sống hòa 
hợp với thiên nhiên. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, tr.87, 
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998. 
[2]. Ngọc Giao, Đất, tr.57,tr.58, tr.78, tr.81 Nxb 
Cây Thông, Hà Nội, 1950. 
[3]. Ngọc Giao, Cầu sương, tr.36, tr.40, tr.106, 
tr.107, Nxb Hà Nội, Hà Nội, 2011. 
[4]. Ngọc Giao, Quán gió, tr.86, Nxb Hương Sơn, 
Hà Nội, 1948. 

File đính kèm:

  • pdfkhong_gian_nui_rung_trong_van_xuoi_ngoc_giao.pdf