Kế toán kiểm toán các quốc gia Asean: Chuẩn bị cho việc gia nhập Cộng đồng kinh tế Asean

Tại tuyên bố "Tầm nhìn ASEAN 2020” thông qua năm

1997, các nhà lãnh đạo ASEAN đã định hướng phát triển

ASEAN thành cộng đồng ASEAN. Ý tưởng này được ASEAN

tái khẳng định trong tuyên bố Bali II năm 2003 với việc

nhất trí hướng đến mục tiêu hình thành cộng đồng ASEAN

với ba trụ cột chính là hợp tác chính trị an ninh, hợp tác

kinh tế và hợp tác văn hóa xã hội. Cuối năm 2007, ASEAN

đưa ra quyết định rút ngắn thời hạn hình thành Cộng đồng

kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015. AEC chính là sự

đẩy mạnh những cơ chế liên kết hiện có của ASEAN và bổ

sung thêm hai nội dung mới là tự do di chuyển lao động và

di chuyển vốn tự do hơn. Trước mắt, sẽ có 8 ngành nghề lao

động trong các nước ASEAN được tự do di chuyển thông

qua các thỏa thuận công nhận tay nghề tương đương gồm

kế toán, kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, kỹ sư, y tá, vận chuyển

và nhân viên ngành Du lịch. Như vậy, trong lĩnh vực kế toán

kiểm toán đã đặt ra cho mỗi quốc gia thành viên phải có sự

chuẩn bị cẩn thận về khung pháp lý, trình độ nguồn nhân

lực, phát triển thị trường nghề nghiệp để sẵn sàng hội nhập

và phát triển

pdf6 trang | Chuyên mục: Kế Toán Quốc Tế | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 227 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Kế toán kiểm toán các quốc gia Asean: Chuẩn bị cho việc gia nhập Cộng đồng kinh tế Asean, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
Brunei. Vị trí cuối 
cùng là Lao và Myanma với mức 
độ tuân thủ các tiêu chí quốc tế 
thấp nhất trong khu vực.
2. Giải pháp hoàn thiện kế 
toán kiểm toán để gia nhập 
công đồng kinh tế ASEAN
Các phân tích tình hình hiện nay, 
cho thấy hầu hết các quốc gia 
ASEAN đã có sự chuẩn bị cho 
việc gia nhập AEC trong lĩnh vực 
kế toán kiểm toán. Để tăng cường 
hội nhập trong lĩnh vực kế toán 
kiểm toán, thời gian tới cần phát 
huy những kết quả đạt được, khắc 
phục những hạn chế với một số 
giải pháp sau:
Một là, hoàn thiện hệ thống 
chuẩn mực kế toán và kiểm toán 
tại các quốc gia AEC theo hướng 
15THAÙNG 4.2016 - SOÁ 167
nghề nghiệp: Các tổ chức nghề 
nghiệp về kế toán và kiểm toán 
phải thực sự trở thành các tổ chức 
tự quản, mang tính nghề nghiệp 
cao, có uy tín và danh tiếng để 
thu hút Hội viên đẳng cấp cao 
hướng đến mục tiêu ngang tầm 
khu vực và quốc tế. Ở một số 
quốc gia, Nhà nước trực tiếp quản 
lý mọi hoạt động nghề nghiệp. 
Kế toán, kiểm toán cần thay đổi 
để phù hợp với thông lệ quốc tế, 
tránh sự can thiệp quá sâu của 
Nhà nước vào hoạt động nghề 
nghiệp, cần chuyển giao một 
phần chức năng quản lý cho hội 
nghề nghiệp, đặc biệt là các vấn 
đề về chuyên môn như soạn thảo 
chuẩn mực kế toán, chuẩn mực 
kiểm toán, quản lý hành nghề, 
kiểm soát chất lượng hoạt động 
các công ty kế toán, kiểm toán 
Để thực hiện được nhiệm vụ này 
đòi hỏi Hội nghề nghiệp phải có 
cán bộ chuyên môn có năng lực 
và thực tế để có thể quản lý bằng 
chuyên môn và kinh nghiệm, 
cường mối quan hệ với các tổ 
chức nghề nghiệp quốc tế về kế 
toán trong việc nghiên cứu, trao 
đổi kinh nghiệm và học hỏi về 
nội dung, phương thức quản lý 
Nhà nước về kế toán, nghiên cứu 
mô hình của các nước phát triển 
để vận dụng vào các nước kém 
hơn; Đẩy mạnh việc thỏa thuận, 
hợp tác giữa các quốc gia trong 
khối ASEAN để tiến tới công 
nhận các bằng cấp và chứng chỉ 
hành nghề của nhau. Tiếp tục 
tăng cường quan hệ hợp tác quốc 
tế, hỗ trợ các hội nghề nghiệp 
thực hiện đầy đủ vai trò thành 
viên của các tổ chức IAFC và 
AFA và Hiệp hội kế toán Châu 
Á- Thái Bình Dương (CAPA).
Năm là, nâng cao sức cạnh tranh 
các công ty kế toán kiểm toán 
bằng cách tái cơ cấu, sáp nhập 
để nâng cao năng lực tài chính; 
Đa dạng hóa các dịch vụ cung 
cấp để đáp ứng các nhu cầu của 
khách hàng về nhiều dịch vụ cần 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kunklaw, R. 2014, The readiness of accounting professionals toward ASEAN economic community, thesis of Faculty of manage-
ment sciences, prince of Songkla university, ThaiLan.
2. Lita Kusumasari 2014, Indonesian institute of accountants (IAI) towards asean economic community (AEC) 2015.
3. Word Bank Group- AFA, September 2014, Current status of the accounting and auditing profession in Asean countries. 
4. ACCA, 2013, The global body for professional accountants.
SUMMARY
Accounting & auditing in Asean countries: Preparing for integration Asean economic community
Asean is progressively working towards the establishment of an economic community by the end of 2015. AEC would pave 
the way for the the free flow of skilled labour in eight professions comprising accountants and others. Asean countries 
are prepared to take part AEC with ready conditions such as accounting & auditing requirements and standards adopted, 
standards-setting, educationing resourses However there is a great variation among asean countries. Therefore it 
is an important task to do consider facilitating increased harmonization of the accounting & auditing requirements 
and education across asean. This paper focuses on analyzing the current status and gives some solution to enhance 
integration of the accounting & auditing profession in Asean countries.
THÔNG TIN TÁC GIẢ
Phan Thị Anh Đào, Tiến sĩ
Đơn vị công tác: Khoa Kế toán- kiểm toán, Học viện Ngân hàng
Lĩnh vực nghiên cứu chính: Kế toán, kiểm toán
Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: Tạp chí Kế toán, kiểm toán; Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng; Tạp chí 
Nghiên cứu Tài chính kế toán; Tạp chí NCKH Kiểm toán; Tạp chí Khoa học thương mại.
Email: phananhdaohvnh@gmail.com
bằng uy tín nghề nghiệp; Phải 
xây dựng và tạo lập được các 
công cụ quản lý hiệu quả như: 
Tư vấn chuyên môn, quản lý trực 
tiếp từng cá nhân, từng công ty 
hội viên; quảng bá và đào tạo để 
phát triển nghề nghiệp. 
Ba là, tăng cường đào tạo đội 
ngũ nhân lực cả về chất và lượng, 
toàn diện về thể lực, tri thức, 
kỹ năng: Nâng cao chuyên môn 
nghiệp vụ; Kỹ năng hành nghề 
chuyên nghiệp; văn hóa ứng xử 
và tác phong hiện đại; Quản lý 
chặt chẽ đảm bảo sự tuân thủ 
nghiêm ngặt về quy trình, phương 
pháp, chuẩn mực chuyên môn 
và đạo đức nghề nghiệp; khuyến 
khích các cơ sở đào tạo mở rộng 
hợp tác quốc tế về đào tạo kế 
toán, hợp tác chặt chẽ hơn nữa 
với các hội nghề nghiệp trên thế 
giới để đào tạo đội ngũ kế toán 
viên, kiểm toán viên đạt chuẩn 
khu vực và quốc tế.
Bốn là, tăng cường hợp tác quốc 
tế trong lĩnh vực kế toán: Tăng xem tiếp trang 60
60 SOÁ 167 - THAÙNG 4.2016
công cụ phái sinh tín dụng. ■
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cấn Văn Lực (2013), “Quản trị rủi ro tại NHTM Việt Nam- Thực trạng và giải pháp”, Hội thảo Quản trị rủi ro 2013 do IDG, 
CICB và BIDV tổ chức, tháng 9/2013.
2. Kiều Hữu Thiện, Phạm Mạnh Hùng (2014), Cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam, Báo 
cáo bức tranh toàn cảnh ngành ngân hàng 2013, Học viện Ngân hàng. 
3. Ahbiman Das & S Ghosh (2007), Determinants of Credit Risk in Indian State-owned Banks: An Empirical Investigation, Eco-
nomic Issues Journal Articles, Economic Issues, vol. 12(2), pages 27-46.
4. Ahlem Selma Messai & Fathi Jouini (2013), “Micro and Macro Determinants of Non-performing Loan”, International Journal of 
Economics and Financial Issues, Econjournals, vol. 3(4), pages 852 - 860.
5. Ahmad, N., Ariff, M. (2007), Multi-country study of bank credit risk determinants, International Journal of Banking and Finance 
5 (1), 135–152.
6. Merton Miller & Franco Modigliani (1967), “Estimates of the Cost of Capital Relevant for Investment Decisions Under Uncer-
tainty”, NBER Chapters, in: Determinants of Investment Behavior, pages 179-213 National Bureau of Economic Research, Inc.32.
7. Muhammad Farhan, Ammara Sattar, Abrar Hussain Chaudhry, Fareeha Khalil (2012), Economic Determinants of Non-Perform-
ing Loans: Perception of Pakistani Bankers, European Journal of Business and Management, vol 4, no.19, 2012.
8. Louzis, D., Vouldis, A., Metaxas, V. (2012), Macroeconomic and bank-specific determinants of nonperforming loans in Greece: a 
comparative study of mortgage, business andconsumer loan portfolios, Journal of Banking and Finance 36 (4), 1012–1027.
9. Reinhart, C., Rogoff, K. (2009), This Time is Different: Eight Centuries of Financial Folly.Princeton University Press.
SUMMARY
Determinants of credit risk in Vietnamese Commercial Bank
For credit operations, the changes in macroeconomic conditions, such as the economic cycle or the economic stability, 
directly impact on the repayment capacity of borrowers, thus, affect the level of credit risk of commercial banks. Besides, 
the individual characteristics in its business of each bank, such as capacity management, operational scale and efficiency 
will influence on its management efficiency as well as credit risk control. Therefore, to provide an overview of the factors 
affecting the credit risk, it is essential to consider macroeconomic factors, which represent the impact of the economic 
environment, as well as microeconomic factors, which represent bank-specific. Basing on these requirements, it is urgent 
to conduct further studies of factors influencing on the credit risk in the business operations of Vietnam commercial banks. 
Those studies will help to find the answers for the questions: “Why has the rate of credit risk of Vietnam commercial 
banks increased so sharply recently?”, “How have bank-specific factors and macroeconomic factors impacted on credit 
risk of banks?” From this practice, the article will study the factors affecting the credit risk in the business operations 
of commercial banks in Vietnam.
THÔNG TIN TÁC GIẢ
Nguyễn Thùy Dương, Tiến sĩ
Đơn vị công tác: Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng
Lĩnh vực nghiên cứu chính: Quản trị ngân hàng, Tín dụng ngân hàng
Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: Ngân hàng, Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Email: duongnt@hvnh.edu.vn
đó, tình trạng an toàn tài chính 
chung của CTCK được thể hiện 
(Bảng 7).
Trên cơ sở tính điểm theo bộ tiêu 
chí trên, cơ quan quản lý có thể 
đánh giá mức an toàn tài chính 
của CTCK và đưa ra được biện 
pháp xử lý và can thiệp cụ thể: 
Các CTCK có tổng điểm từ 80 
trở lên được coi là có tình hình 
tài chính lành mạnh; từ 65-80 thì 
được coi là bình thường; từ 50-65 
CTCK bị đưa vào diện kiểm soát 
tiếp theo trang 47 và dưới 50 điểm thì bị đưa vào 
diện kiểm soát đặc biệt. 
Cách đánh giá an toàn tài chính 
của CTCK theo tiêu chí trên sẽ 
khắc phục được các bất cập của 
quy định hiện tại về an toàn tài 
chính của CTCK, phản ánh được 
toàn diện tình hình tài chính của 
CTCK. Việc ứng dụng bộ tiêu 
chí trên để đánh giá và xếp hạng 
an toàn tài chính của CTCK Việt 
Nam tác giả sẽ đề cập ở bài viết 
khác. ■
thiết như các loại dịch vụ kiểm 
toán, các dịch vụ kế toán; Đầu 
tư vào chất lượng sản phẩm dịch 
vụ thông qua đầu tư nguồn nhân 
lực ngay từ khâu tuyển dụng 
thu hút nhân tài, đến đào tạo đội 
ngũ nhân viên chuyên nghiệp, 
am hiểu nghiệp vụ, tuân thủ tốt 
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, 
có chính sách khuyến khích nhân 
viên có chứng chỉ nghề nghiệp 
quốc tế, không ngừng cải thiện 
khả năng tổ chức thực hiện dịch 
vụ ngày càng chuyên nghiệp. ■tiếp theo trang 15

File đính kèm:

  • pdfke_toan_kiem_toan_cac_quoc_gia_asean_chuan_bi_cho_viec_gia_n.pdf
Tài liệu liên quan