Giáo trình Lý luận văn học 2 (Phần 1)
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU. 1
PHẦN THỨ NHẤT
TÁC PHẨM VĂN HỌC VÀ CÁC YẾU TỐ CỦA CHỈNH THỂ TÁC PHẨM
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TÁC PHẨM VĂN HỌC
1.1. Khái niệm tác phẩm văn học . 2
1.2. Tác phẩm văn học là chỉnh thể cơ bản của đời sống văn học . 4
Câu hỏi ôn tập. 15
Chương 2
ĐỀ TÀI, CHỦ ĐỀ, TƯ TƯỞNG VÀ Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM VĂN HOC
2.1. Đề tài và chủ đề của tác phẩm văn học . 16
2.2. Tư tưởng của tác phẩm văn học . 22
2.3. Ý nghĩa của tác phẩm văn học. 29
Câu hỏi ôn tập. 30
Chương 3
NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HOC
3.1. Nhân vật văn học và vai trò nhân vật trong tác phẩm . 31
3.2. Phân loại nhân vật . 34
3.3. Một số kiểu cấu trúc nhân vật. 38
3.4. Một số biện pháp xây dựng nhân vật. 41
Câu hỏi ôn tập. 45
Chương 4
CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC
4.1. Cốt truyện . 46
4.2. Kết cấu. 59
4.3. Một số hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học. 63
Câu hỏi ôn tập. 68
Chương 5
LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC
5.1. Lời văn trong tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật. 69
5.2. Đặc trưng của lời văn nghệ thuật. 70
5.3. Các phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật. 73
5.4. Các thành phần của lời văn trong tác phẩm văn học. 79
Câu hỏi ôn tập. 82
PHẦN THỨ HAI
LOẠI THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC
Chương 6
KHAI QUÁT VỀ LOẠI THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC
6.1. Khái niệm loại thể tác phẩm văn học . 83
6.2. Sự phân loại loại thể văn học . 85
6.3. Tiêu chí phân chia thể loại tác phẩm văn học . 88
6.4. Ý nghĩa của thể loại văn học . 89
Câu hỏi ôn tập. 91Chương 7
TÁC PHẨM TRỮ TÌNH
7.1. Khái niệm . 92
7.2. Đặc trưng của tác phẩm trữ tình . 93
7.3. Phân loại thơ trữ tình . 102
7.4. Tổ chức bài thơ trữ tình . 107
Câu hỏi ôn tập. 108
Chương 8
TÁC PHẨM TỰ SỰ
8.1. Khái niệm . 109
8.2. Đặc trưng của tác phẩm tự sự. 109
8.3. Một số thể loại tự sự cơ bản . 115
Câu hỏi ôn tập. 124
Chương 9
KỊCH BẢN VĂN HỌC
9.1 Khái niệm . 125
9.2. Đặc trưng của kịch bản văn học . 126
9.3. Phân loại kịch . 133
Câu hỏi ôn tập. 135
Chương 10
TÁC PHẨM KÍ VĂN HỌC
10.1. Khái niệm . 136
10.2. Đặc trưng của kí văn học. 137
10.3. Một số thể loại kí. 141
Câu hỏi ôn tập. 146
Chương 11
TÁC PHẨM CHÍNH LUẬN
11.1 Khái niệm . 147
11.2. Đặc trưng cơ bản của tác phẩm chính luận . 149
11.3. Các phẩm chất cơ bản của văn chính luận . 153
Câu hỏi ôn tập. 156
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 157
ngoài cái nội dung ngữ nghĩa thông thường của nó: “Búa liềm không sợ súng gươm bạo tàn”. (Ba mươi năm đời ta có Đảng – Tố Hữu) Tượng trưng là hình tượng bóng gió của từ ngữ biểu thị một ý nghĩa độc lập cố định đã thành ước lệ: 77 “Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ, khăng khăng đợi thuyền.” (Ca dao) Thuyền tượng trưng cho người con trai, bến tượng trưng cho người con gái. Con cò trong ca dao thường tượng trưng cho thân phận vất vả của người phụ nữ, người nông dân hiền lành, chất phác. Hình ảnh con cò được thể hiện thật cảm động trong bài Thương vợ của Trần Tế Xương: “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng Lăn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông”. 5.3.3.6. Nhã ngữ Nhã ngữ (uyển ngữ, nói giảm), lối diễn đạt bằng từ hay nhóm từ cố ý giảm thiểu mức độ, kích thước, ý nghĩa của đối tượng để đạt hiểu quả biểu hiện nhất định. Đây là lối dùng từ cố ý giảm đi mức độ của khích thước, tính chất, hiệu quả của sự vật, hiện tượng nhằm thể hiện một tình cảm nào đó và thường được sử dụng để nói về cái chết: “ Bác Dương thôi đã thôi rồi Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta” (Khóc Dương Khuê – Nguyễn Khuyến) 5.3.3.7. Phản ngữ Phản ngữ là lối vận dụng các từ đối lập về ý nghĩa để biểu hiện một đối tượng nhằm nêu bật ý nghĩa nhiều mặt của nó. Vận dụng các từ ngữ biểu thị những khái niệm đối lập nhau cùng xuất hiện trong một văn cảnh nhằm mục đích làm rõ hơn đặc điểm của đối tượng được miêu tả: Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già” Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật” (Vội vàng – Xuân Diệu) 78 5.3.3.8. Chơi chữ Chơi chữ là biện pháp tu từ vận dụng linh hoạt các tiềm năng về ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp của tiếng Việt, nhằm tạo nên phần tin khác loại tồn tại song song với phần tin cơ sở. Phần tin khác loại này – tức lượng ngữ nghĩa mới là bất ngờ và về bản chất là không có quan hệ phù hợp với phần tin cơ sở: “Con công đi chùa làng kênh Nó nghe tiếng cồng nó kềnh cổ lại”. (Ca dao) Chơi chữ là phương thức sử dụng từ ngữ một cách đặc biệt nhằm tạo nên một nét nghĩa bổ sung, bất ngờ, tồn tại song song với nét nghĩa chính: “Bà già đi chợ cầu Đông Bói xem một quẻ có chồng lợi chăng Ông thầy xem quẻ đoán rằng Lợi thì có lợi nhưng răng không còn”. (Ca dao) “Trăng bao nhiêu tuổi trăng già Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non”. (Ca dao) 5.3.4. Xét từ góc độ cú pháp Lời văn trong tác phẩm văn học khác với lời nói hàng ngày, khác với báo chí văn khoa học ở chỗ nó là một hiện tượng nghệ thuật do tính hình tượng và tính tổ chức cao. Để xây dựng ngôn ngữ đó, nhà văn nhà thơ khai thác các phương tiện biểu hiện vốn có của ngôn ngữ tự nhiên bằng các phương tiện cú pháp như câu, điệp từ, chấm câu, câu nghi vấn, câu cảm thán, cũng giúp cho lời văn nghệ thuật có sức truyền cảm nhằm diễn đạt ý tình của nhà văn. Các phương cú pháp có ý nghĩa rất quan trọng để tạo thành câu văn nghệ thuật. Chẳng hạn câu đồng nghĩa, câu cảm thán, câu nghi vấn, các loại câu phức, câu rút gọn, điệp ngữ. Tác phẩm văn học không hạn chế trong phạm vi từ ngữ mà còn ở cả trong trật tự cú pháp của câu văn. Trong văn học khi nhắc đến cú pháp thơ văn người ta thường hay nhắc đến một số kiểu câu có tính chất từ phổ biến trong văn thơ: 79 “Em là ai? Cô gái hay nàng tiên Em có tuổi hay không có tuổi? Mái tóc em đây hay là mây là suối Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông Thịt da em hay là sắt là đồng”. (Người con gái Việt Nam – Tố Hữu) Các phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật rất phong phú, đa dạng. Việc nắm bắt các phương tiện trên chỉ mới là cơ sở để hiểu lời văn nghệ thuật. Điều quan trọng là phải phát hiện những phương tiện đó được nhà văn vận dụng cụ thể như thế nào để tạo nên lời văn nghệ thuật. 5.4. Các thành phần của lời văn trong tác phẩm văn học 5.4.1. Lời trực tiếp Lời trực tiếp là lời của nhân vật trong tác phẩm văn học. Qua đó, người ta biết được môi trường, nghề nghiệp, học vấn, tâm lí, lứa tuổi, cá tính nhân vật. Ví dụ, trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, ta thấy nhân vật Huấn Cao trả lời với viên quan ngục: “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều: là nhà ngươi đừng đặt chân chân vào đây”. Lời nói này, phản ánh khí thế hiên ngang của ông Huấn Cao, là lời nói của một con người không chịu cúi mình cầu xin loại người xấu xa, độc ác, lời nói của con người từ lâu đã dứt khoát không chấp nhận sống chung với cái xấu, cái ác mà ông cố làm ra khinh bạc. Nguyên tắc miêu tả lời nói đã cho phép văn học tái hiện lời nói trong tổng thể biểu hiện của con người và trong tổng thể hoạt động nội tâm. Do đó, không nhất thiết khi nào nhân vật cũng nói đủ ý tứ. Nhà văn phải ý thức được rằng lời nhân vật là một tồn tài khách quan, phải quan sát mới khắc họa được. Cho nên, lời trực tiếp còn góp phần thể hiện nội tâm của nhân vật. Lời nội tâm là một dạng đặc biệt của lời trực tiếp. Ví dụ, trong Lão Hạc của Nam Cao: “Cái vườn của con ta. Hồi còn mồ ma mẹ nó, mẹ nó cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới đề ra được năm mươi đồng bạc tậu. Hồi ấy, mọi thức còn rẻ cả, của mẹ nó tậu, thì nó hưởng. lớp trước nó đòi bán, ta không cho bán là ta có ý giữ cho nó, chú nó phải giữ để ta ăn đâu? Nó không có tiền cưới vợ, phẫn chí bước ra đi thì đến lúc có tiền lấy vợ, mới chịu về. Ta bòn vườn của nó, cũng 80 nên để ra cho nó; đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào với nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ, thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn, ”. Nam Cao đã để nhân vật lão Hạc thổ lộ tình cảm của lão với đứa con đang kiếm ăn ở phương trời xa. 5.4.2. Lời gián tiếp Lời gián tiếp là lời đảm đương chức năng trần thuật, giới thiệu, miêu tả, bình luận con người và sự kiện, phân biệt với lời trực tiếp được đặt trong ngoặc kép hoặc sau gạch đầu dòng. Lời gián tiếp là lời của người trần thuật, người kể chuyện. Đây là cách gọi ước lệ để chỉ chức năng trần thuật của lời văn, dù là lời kể theo ngôi thứ nhất. Lời gián tiếp có thể chia hai loại, lời gián tiếp một giọng và lời gián tiếp nhiều giọng. - Lời gián tiếp một giọng: là lời kể hướng tới sự vật nhằm tái hiện, giới thiệu về nó. Lời tái hiện hay bình phẩm các hiện tượng của thế giới theo ý nghĩa khách quan vốn có của chúng theo ý đồ của tác giả, không liên quan gì đến ý thức, suy nghĩ của người khác về chúng. Trong văn học dân gian và văn học cổ, các tác giả thường sử dụng hình thức này. Ví dụ, “Thuở ấy chưa có vũ trụ, chưa có muôn vật và loài người. Trời đất chỉ là một đám hỗn độn, tối tăm và lạnh lẽo” (Thần trụ trời). Đây là loại lời kể đơn giản và cổ xưa nhất. - Lời gián tiếp nhiều giọng: là lời kể vừa hướng vào tái hiện đối tượng lại vừa đối thoại ngầm với lời người khác ngoài đối tượng, hoặc đối thoại ngầm với chính đối tượng. Đây là loại lời phát triển nhất và phong phú nhất, ở đây chỉ lưu ý số dạng thường gặp. + Lời phong cách hóa: là lời trần thuật bằng giọng người khác mà khuynh hướng nghĩa cùng chiều với lời giọng ấy, để tạo sắc thái, không khí cá thể. Ví dụ, đoạn văn trong truyện Mùa lạc của Nguyễn Khải: “Đào lên nông trường Điện Biên vào dịp đầu năm, ngoài Tết âm lịch chừng nửa tháng với tâm lý con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời đã qua, còn những ngày sắp tới ra sao chị cũng không cần rõ, đại khái là cũng chẳng hơn gì trước mấy, có thể gặp nhiều đau buồn hơn. Quân tử gian nan, hồng nhan vất vả, số kiếp người đã định thế, ”. Những câu 81 thành ngữ thể hiện ý thức của những người “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh” với một lòng đồng cảm. + Lời nửa trực tiếp: là lời của người trần thuật với lời lẽ ý nghĩ, ngữ điệu của nhân vật, nhằm bộc lộ nội tâm nhân vật. Ví dụ, đoạn văn trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài: “Rồi say, Mỵ lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mỵ thì đang sống về ngày trước. Tai Mỵ văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mỹ thổi sáo giỏi, Mỵ trẻ lắm. Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mỵ, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay! Không buồn nhớ lại nữa”. Vẫn là lời trần thuật của người trần thuật, đồng thời lại là tiếng lòng thổn thức của nhân vật. Nhân vật tự cảm mà không nói, người trần thuật nói lời thầm kín của nhân vật. 5.4.3. Lời kể ngôi thứ nhất, xưng “tôi” Đa số thuộc lời trực tiếp, vì là lời của nhân vật, nhưng xét về chức năng trần thuật thì nó có tính gián tiếp. Thực ra tính trực tiếp ở đây có tính ước lệ. Nhà văn mượn tính trực tiếp như một điểm nhìn trần thuật (truyện có tính chất tự truyện, thể nhật kí, hoặc người chứng kiến kể chuyện). Lời này mang lại một điểm nhìn mang quan niệm đặc biệt, mang lại chất trữ tình, khả năng tự bộc bạch, tự phân tích (chẳng hạn, truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao). 5.4.4. Lời trần thuật nội tâm Độc thoại là lời của nhân vật, lời trực tiếp, có thể nói với mình, hay với người khác, nhưng nó độc lập với các đối đáp. Độc thoại nội tâm là một biện pháp bộc lộ những cảm xúc, ý nghĩ thầm kín. Bởi vì, trong ý nghĩ con người tỏ ra tự do hơn là trong lời nói ra lời. Ví dụ, trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Kiều có ý nghĩ: “Biết thân đến bước lạc loài Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”. Như vậy, độc thoại nội tâm có thể là lời trực tiếp vừa có thể là lời gián tiếp dùng để trần thuật. Phạm vi của nó bao gồm cả lời nửa trực tiếp. 82 CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích sự khác nhau giữa lời văn nghệ thuật với lời nói trong đời sống hàng ngày? Cho ví dụ để chứng minh. 2. Hãy nêu lên những đặc trưng của lời văn nghệ thuật trong tác phẩm văn học. 3. Hãy trình bày các phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật. 4. Hãy nêu vai trò của lời trực tiếp và lời gián tiếp.
File đính kèm:
- giao_trinh_ly_luan_van_hoc_2_phan_1.pdf