Giáo dục tôn giáo và vai trò của tôn giáo trong lịch sử giáo dục Việt Nam

Tóm tắt: Mục tiêu cao nhất của giáo dục là hướng tới sự phát triển

con người. Cùng với việc trao truyền tri thức, giáo dục theo nghĩa

hẹp là giáo dục đạo đức, định hình các chuẩn mực, giá trị và lối ứng

xử cho mỗi cá nhân trong xã hội, tức là hướng đến việc hình thành

nhân cách con người. Tôn giáo là một trong các yếu tố góp phần

giáo dục nhân cách bởi giáo lý mỗi tôn giáo đều có những nội dung

răn dạy tín đồ tu dưỡng cách làm người và đối nhân xử thế. Trong

bài viết này, tác giả không có chủ ý so sánh giáo dục nhân cách giữa

giáo dục quốc dân và giáo dục của các tôn giáo để kêu gọi thiết lập

nền giáo dục tôn giáo, mà bằng cách tiếp cận Sử học, tác giả khái

quát sự đóng góp của tôn giáo trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam từ

thế kỷ XI tới nay nhằm cho thấy tôn giáo có thể là một nguồn lực

tham gia vào sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay.

pdf21 trang | Chuyên mục: Lịch Sử Văn Hóa Việt Nam | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Giáo dục tôn giáo và vai trò của tôn giáo trong lịch sử giáo dục Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
o hai mô hình Kitô giáo và Phật 
giáo cho thấy có những khác biệt trong cách dạy và học. Các trường mẫu 
giáo theo mô hình Kitô giáo, tự do cá nhân của trẻ em được tôn trọng và 
trẻ em được tạo điều kiện phát triển nhân cách tự do, và vui chơi của trẻ 
em là hoạt động chủ đạo, được tôn trọng. Giáo viên ít can thiệp vào hoạt 
động của trẻ. Ngược lại, ở mô hình trường tổ chức theo Phật giáo, trẻ em 
lại được giáo dục từ rất sớm khả năng nhận biết hoàn cảnh khó khăn của 
cuộc sống và biết cách ứng xử để cùng mọi người thoát ra khỏi hoàn cảnh 
ấy. Triết lý giáo dục là nhấn mạnh đến tình thương và lòng từ bi, không 
chỉ giữa người với người mà còn giữa con người với mọi sinh vật và cả 
cây cỏ nữa. Ngoài ra, nhà trường còn chủ trương cho trẻ em tập rèn luyện 
thân thể như những hoạt động chính của trường để các em có thể trở 
thành những con người mạnh mẽ và rộng lượng theo hình mẫu Phật giáo 
(Trần Hữu Thiên, 2015). 
Dẫn ra vài ví dụ nói trên để thấy rằng giáo dục tôn giáo là một đặc 
điểm phổ quát ở nhiều hệ thống giáo dục quốc dân, và các triết lý sống, 
đạo đức và chuẩn mực tôn giáo đã thấm đượm vào tâm hồn trẻ thơ từ rất 
sớm, góp phần tạo nên nhân cách của con người khi trưởng thành. Những 
kiến thức đạo đức, quan điểm và văn hóa ứng xử trẻ em học được sẽ 
được chúng vận dụng vào cuộc sống, và từ đó, tạo ra ảnh hưởng tới xã 
hội và mọi người xung quanh. Lối nghĩ và cách ứng xử của trẻ em được 
hình thành thông qua sự tham gia vào những thực hành trao đổi qua lại 
với nhau. Chúng giải thích và tạo lập các chuẩn mực để ứng xử trong 
những tình huống khác nhau dựa trên kinh nghiệm và cách nghĩ chúng 
học được. Nếu chúng ta cho rằng mục tiêu cao nhất của giáo dục là nhằm 
vào con người, lấy con người làm trung tâm, là vì sự phát triển con người 
(Phùng Xuân Nhạ, 2016) thì cách giáo dục đạo đức, các chuẩn mực, giá 
trị và lối ứng xử có ý nghĩa đặc biệt. Nếu một hệ thống giáo dục không 
coi trọng điều đó, nếu chỉ tập trung vào trao truyền tri thức, giáo dục đó 
Nguyêñ Quang Hưng, Nguyêñ Văn Chıńh. Giaó dụ c tôn giáo... 99 
sẽ thất bại. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng giáo dục tôn giáo không 
có gì mâu thuẫn với vai trò của nhà nước thế tục, ngược lại, nó không chỉ 
mang các giá trị tốt đẹp của tôn giáo vào công tác đào tạo thế hệ tương lai 
mà còn góp phần huy động được nguồn lực to lớn từ các tôn giáo tham 
gia vào công tác giáo dục. 
Cuối cùng, chúng tôi không kêu gọi một nền giáo dục tôn giáo mà 
ngược lại, khẳng định tầm quan trọng của việc xây dựng mô hình nhà nước 
thế tục. Tuy nhiên, sự trở lại của tôn giáo trong lĩnh vực giáo dục có một ý 
nghĩa quan trọng góp phần xã hội hóa giáo dục, sử dụng được nguồn lực 
của tôn giáo và giá trị đạo đức tốt đẹp của tôn giáo vào giáo dục là một đòi 
hỏi cấp thiết hiện nay. Sự tham gia của tôn giáo vào giáo dục không chỉ 
giúp đa dạng hóa các nguồn lực văn hóa, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau 
giữa các văn hóa và niềm tin tôn giáo mà còn giúp tận dụng được sự tham 
gia của xã hội vào sự nghiệp giáo dục, giảm thiểu những nguy cơ gây xung 
đột giữa các tôn giáo và giữa tôn giáo với nhà nước./. 
CHÚ THÍCH: 
1 Alexandre B. Woodside (1988), Vietnam and the Chinese Model - A Comparative 
Study of Vietnamese and Chinese Governments in the First Half of the Nineteenth 
Century, Harvard University, Cambridge, Massachustts and London: 224-225. 
2 Vũ Ngọc Khánh (1985), Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước 1945, Nxb. Giáo 
dục, Hà Nội: 71-72. 
3 Nguyễn Q. Thắng (2005), Khoa cử & Giáo dục Việt Nam, Nxb. Tổng hợp, Tp. 
Hồ Chí Minh: 69. 
4 Thư của Giám mục Lefèbvre, Archive MEP, vol. 758, p. 417. 
5 Création d’une Aca dé mie Tonkinoise par Paul Bert, 3/7/1886. In: Les Débuts 
de l’ Enseigmement Franşái au Tonkin pả Dumoutier, 1887. Trong: Dumoutier, 
M. G (1900), Rapport du Directeur de l’ Enseignement sur l’ Enseignement 
Franşais en Annam et au Tonkin en 1900, L’ Enseignement Franco-Annamite - A 
Exposition Universelle de 1900 par Dumoutier, Imprimerie Typo-
Lithographique Schneider, Hanoi. Appendix. 
6 Situation de l’Indo-chine (1897-1901) (1902), Rapport par M. Paul Doumer, 
Gouveneur-Genéral, Hanoi, F. H. Schneider, 1902, T’oung Pao, Second Series, 
Vol. 3, No. 2, tr. 130. Dẫn theo: Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp-
Việt ở Bắc Kỳ (1884-1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 55. 
7 Đạo chỉ dụ thứ nhất của Đức Bảo Đại, số 176 tháng 9 năm 1932, tr. 305-328. 
Dẫn theo: Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp-Việt ở Bắc Kỳ (1884-
1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 191. 
8 Gouvernement de l’Indochine, Rapports, deuxi è me partie, tableau V, 1920 
1940, p. 23. 
9 Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp-Việt ở Bắc Kỳ (1884-1945), Nxb. 
Khoa học xã hội, Hà Nội: 211. 
10 Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp-Việt ở Bắc Kỳ (1884-1945), Sđd, 245. 
100 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́5 - 2016 
11 Theo sách Niên giám Công giáo Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2004, thì vào 
năm 1969, Giáo hội Công giáo ở Miền Nam Việt Nam đã sở hữu 226 trường 
trung học, 1.030 trường tiểu học, cô nhi viện, 48 bệnh viện, 35 viện dưỡng lão, 8 
trại phong cùi và 159 phòng phát thuốc. Sau năm 1975, Giáo phận Sài Gòn có 
400 cơ sở bị trưng dụng, 95 cơ sở thuộc Tổng Giáo phận Hà Nội bị chiếm dụng. 
12 Trương Bá Cần (chủ biên, 2008), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập 
2, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 165. 
13 Quốc hội CHXHCN Việt Nam (2004), Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo, Hà Nội. 
Website:  
14 Luật Giáo dục nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005. 
15 Hội đồng Giám mục Việt Nam (2007), Thư chung về giáo dục Kitô giáo. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Andersen, Peter B. and Carin Laudrup, “Religious Education as a Tool for 
Enhancing Diversity”, in: Sporre, Karin and Gudrun Svedberg (eds.) (2010), 
Changing Societies - Values, Religions, and Education, Working Papers in 
Teacher Education, No. 7 (2010), pp. 7-18. 
2. Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Giáo dục năm 2005. 
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12/3/2003 Về 
công tác tôn giáo trong tình hình mới, trong Ban Tôn giáo Chính phủ, “Tôn 
trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta”, 
4. Hoàng Tụy (2008), Nhìn thẳng vào khủng hoảng giáo dục Việt Nam, . 
duc-vn, truy cập ngày 07/6/2008. 
5. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2007), Thư chung về giáo dục Kitô giáo. 
6. Holloway, Susan D. (1999), “The Role of Religious Beliefs in Early Chilhood 
Educa- tion: Christian and Buddhism Preschool in Japan”, Early Chilhood 
Research and Practice, Volume 1, Number 2; 1999. 
7. Lê Vinh Danh (2014), “Khủng hoảng giáo dục là do không có triết lý giáo dục”, 
Lao Động cuối tuần, thứ Năm, 17/4/2014. 
tra-cuu/khung_hoang_giao_duc_do_khong_co_triet_ly_giao_duc.html 
8. Lưu Trọng Lư (1939), “Một nền văn chương Việt Nam”, Tao Đàn, số 2, ngày 
16/3/1939. 
9. Nguyễn Q. Thắng (2005), Khoa cử & Giáo dục Việt Nam, Nxb. Tổng hợp, Tp. 
Hồ Chí Minh. 
10. Nguyễn Xuân Sanh (2014), “Giáo dục nhân cách”, Tia Sáng, 12/12/2014. 
11. Phùng Xuân Nhạ (2016), “Mục tiêu của giáo dục không phải là bằng cấp”. 
VnExpress Phỏng vấn với tân Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo ngày 10 tháng 4 
năm 2016. 
tieu-cua-giao-duc-khong-phai-la-bang-cap-3384392.html 
12. Quốc hội CHXHCN Việt Nam, Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo, Hà Nội, 2004. 
13. Vũ Ngọc Khánh (1985), Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước 1945, Nxb. Giáo 
dục, Hà Nội. 
14. Thư của Giám mục Lefèbvre, Archives MEP, Vol. 758. 
Nguyêñ Quang Hưng, Nguyêñ Văn Chıńh. Giaó dụ c tôn giáo... 101 
15. Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp - Việt ở Bắc Kỳ (1884-1945), Nxb. 
Khoa học xã hội, Hà Nội. 
16. Trần Hữu Thiên (2015), “Niềm tin tôn giáo và giáo dục mẫu giáo”, Văn hóa 
Phật giáo, số 186. 
17. Trương Bá Cần (chủ biên, 2008), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập 
2, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 
18. Học sinh xé đề cương môn sử: “Khuôn méo sao đúc bát tròn” (Students tore the 
history reading materials into pieces and threw away) 
duc/Hoc-sinh-xe-de-cuong-mon-su-Khuon-meo-sao-duc-bat-
tron/2131625312/202/>; truy cập ngày 15/4/ 2013. 
19. Phỏng vấn Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo về Học viện Công giáo Việt Nam. 
duc-dao-ve-hoc-vien-cong-giao-viet-nam.html 
20. 13.820 thí sinh bị điểm 1 môn lịch sử (13,820 examinees received 1mark and 
below), 
su-1990440.html, truy cập ngày 20/8/2013. 
21. Woodside, Alexandre B. (1988), Vietnam and the Chinese Model, a Comparative 
Study of Vietnamese and Chinese governments in the first half of the Nineteenth 
Century, Harvard University, Cambridge, Massachustts and London. 
22. Sefton, Malin (2010), “Police students’s talk about the relevance of religion in 
policing - Teaching and learning about diversity at the Swedish National Police 
Academy”, in: Sporre, Karin and Gudrun Svedberg (eds.), (2010), Changing 
Societies - Values, Religions, and Education, Working Papers in Teacher 
Education, No. 7 (2010), pp. 63-70. 
Abstract 
EDUCATION OF RELIGION AND ROLE OF RELIGION 
IN THE VIETNAM EDUCATIONAL HISTORY 
The goal of education aims at human development. Along with the 
transmission of knowledge, education in the strict sense connotes moral 
education, shaping the norms, values and behaviours for each individual 
in society, towards the development of personality. Religion is one of the 
factors contributing to personal education because every religious dogma 
teaches believers how to cultivate and to behave. In this article, the 
author does not intend to compare the ethical education of national 
education with religious education to call for an education of religion; 
however, by the historical approach, the author generalizes the religion’s 
contribution in the domain of education in Vietnam from the 11th century 
to the present in order to indicate that religion can be a source of the 
contemporary education in Vietnam. 
Keywords: Education, history, religion, role, Vietnam. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_duc_ton_giao_va_vai_tro_cua_ton_giao_trong_lich_su_giao.pdf
Tài liệu liên quan