Giá trị thẩm mỹ của từ láy trong truyện thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng
Trong truyện viết cho thiếu nhi, Nguyễn Huy Tưởng sử dụng nhiều từ láy đôi,
phù hợp với khả năng tiếp nhận của bạn đọc nhỏ tuổi. Dấu ấn sáng tạo của nhà
văn được thể hiện qua việc kiến tạo một số từ láy tư, hoặc ở cách kết hợp với
những từ ngữ khác. Từ láy làm cho nội dung miêu tả trở thành một lớp văn cơ
bản trong tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng. Nhờ vậy, hiện thực đời sống lao
động và chiến đấu của cha ông xưa đã được tái hiện một cách cụ thể, sinh động
trong những câu văn giàu hình tượng và biểu cảm.
ỌC XÃ HỘI số 6 (250) 2019 53 ngàu”; về những con sông “tiếng sóng đùng đùng”, “nước mênh mông lẫn vào trong bóng tối mịt mù”; về “con đường thiên lý gập ghềnh, khuất khúc”; về “những cánh đồng trơ gốc rạ mênh mông bát ngát” và cảnh kinh thành “đang cháy ngùn ngụt” Trên nền không gian ấy, nhà văn lần lượt khắc họa vẻ đẹp của người lính Tây Sơn với những gương mặt “lì lợm, dạn dày sương gió”, lúc nào cũng “đăm đăm nhìn về phía trước”, lúc chiến đấu thì “thoăn thoắt trèo thang lên ùn ùn”. Trái lại, về kẻ thù, Nguyễn Huy Tưởng cũng dùng không ít những từ láy để miêu tả bản chất đớn hèn khi lâm trận: “chúng mếu máo gọi nhau”, “viên tướng run rẩy chạy ra”, “chúng cứ chạy lúng túng như ếch vào xiếc”, “phó tướng hớt hơ hớt hải chạy lại” Những từ láy kể trên hầu hết đều hướng tới diễn tả cái động, diễn tả các sự kiện đang trong quá trình diễn biến. Nói cách khác, Nguyễn Huy Tưởng ít khi miêu tả hiện thực yên ả, trầm lặng mà hứng thú hơn với cái dữ dội, ẩn chứa nhiều biến động bất ngờ. Cố nhiên, sức mạnh của mỗi từ láy luôn phụ thuộc vào cách dùng linh hoạt của Nguyễn Huy Tưởng. Thường khi cần nhấn mạnh, nhà văn sẽ đặt từ láy ở trước động từ (thút thít khóc); lặp lại nhiều lần (ví dụ, trong Thằng Quấy, từ láy trùng trục được nhắc tới 10 lần để tả ngoại hình nhân vật Quấy); hoặc kết hợp với so sánh để ý nghĩa thêm sáng rõ (lộng lẫy hơn ánh sáng, nhớn nhác như đàn gà). Sự linh hoạt cũng thể hiện ở việc nhà văn sử dụng những từ láy đồng nghĩa hay gần nghĩa, kiểu như: vui vẻ/vui vầy, mênh mông/mênh mang Với bạn đọc vốn ưa thích sự mới mẻ thì cách diễn đạt này lá khá phù hợp. Cũng cần nói thêm, trong một số trường hợp, từ láy có tác dụng nhân hóa sự vật, tạo nên sự hòa điệu giữa cái nhìn của nhà văn với cái nhìn của trẻ thơ. Có thể kể tới từ láy trong một số đoạn văn sau: “Nhưng dưới khe sâu, người bố kêu thê thảm: Chúa làng giết tôi rồi! Và lá rừng rì rào: Chúa làng giết người! Núi thì thầm: Chúa làng giết người! Khe sâu róc rách: Chúa làng giết người!” (Tìm mẹ); “Những làng mạc chung quanh ngơ ngác chưa biết chuyện gì” (Kể chuyện Quang Trung). Như vậy, miêu tả là một giá trị nổi bật của truyện thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng, là kết quả dụng công của một ngòi bút muốn tái hiện đời sống hiện thực một cách cụ thể, sinh động. Từ những trang văn miêu tả như vậy, bạn đọc còn cảm nhận được thái độ, tình cảm đầy tin yêu của nhà văn đối với cuộc sống. 2.2. Giá trị biểu cảm Theo Hà Quang Năng: “Mỗi từ láy chứa đựng trong mình một sự thể hiện tinh tế, sinh động về sự cảm thụ chủ quan, về cách đánh giá và thái độ của người nói trước sự vật và hiện tượng của đời sống xã hội” (Hà Quang Năng, 2005: 3). Điều này có ý nghĩa tương đồng khi nói về giá trị biểu cảm của từ láy trong truyện thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng. LÊ NHẬT KÝ – GIÁ TRỊ THẨM MỸ CỦA TỪ LÁY TRONG TRUYỆN 54 Khác dân gian, Nguyễn Huy Tưởng trần thuật câu chuyện bằng giọng điệu nhuốm màu sắc chủ quan, thể hiện rõ cái yêu cái ghét của bản thân đối với từng nhân vật và sự kiện. Với đặc điểm trần thuật như vậy, Nguyễn Huy Tưởng tất yếu sẽ sử dụng từ láy như một giải pháp căn bản. Theo quan sát của chúng tôi, giá trị biểu cảm của từ láy trong truyện thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng thể hiện qua hai hình thức tổ chức ngôn ngữ của nhà văn. Trước hết, từ láy xuất hiện trong các đoạn văn có tính chất trữ tình ngoại đề, là lời trò chuyện trực tiếp của nhà văn với bạn đọc. Hình thức này được Nguyễn Huy Tưởng sử dụng ở khá nhiều tác phẩm, như: Chiếc bánh chưng, Con Cóc là cậu ông Giời, Hai bàn tay chiến sĩ Thường những đoạn trữ tình như vậy sẽ xuất hiện ở đầu hay cuối, hoặc cả đầu cả cuối tác phẩm. Với truyện Chiếc bánh chưng, Nguyễn Huy Tưởng chỉ trữ tình ở đầu tác phẩm: “Ngày tư chắc cũng có nhiều em ăn bánh chưng hàng, nhưng nó cũng như món quà thường, không có ý vị gì. Chỉ có bánh chưng ngày Tết mới thơm tho, mới ngon lành, mới quý. Nó là phần thưởng của công cày sâu cuốc bẫm, nó là tinh hoa của mùa màng. Nó còn đượm mùi đồng lúa; nó là kết quả của công sắm sửa, công gói, công đun của cả một gia đình trong muôn vàn gia đình chăm chỉ ở xứ sở Việt Nam ta. Cho nên tôi, riêng tôi, chỉ quý, chỉ yêu bánh chưng ngày Tết do cha mẹ tôi gói, do anh em tôi đun, những ngày gần hết năm, dưới con mắt che chở của tổ tiên”. Ngược lại, trong Hai bàn tay chiến sĩ và Con Cóc là cậu ông Giời, phương thức trữ tình ngoại đề được thực hiện ở cả đầu và cuối truyện: - Hai bàn tay chiến sĩ: “Tôi còn nhớ Hội nghị chiến sĩ toàn quân đầu năm 1952. Bẩm lên báo cáo thành tích trước Hội nghị. Cả hội trường cảm động nhìn đôi bàn tay tàn tật của anh. Đôi bàn tay còng queo, teo lại. Các ngón tay đều cụt, một hai ngón còn lại thì dại đờ như mấy cây trơ trụi trong một cái vườn đã cháy hết” (đầu truyện); “Các em, đến đây tôi tạm ngừng câu chuyện chiến sĩ Bẩm. Chắc chắn rằng khi nghe kể, các em rất căm thù những kẻ độc ác đã hủy hoại đôi bàn tay của một con người. Đồng thời các em cũng thấy rõ cái giá trị của đôi bàn tay. Biết bao nhiêu bàn tay đã bị trụi, bị cụt như tay anh Bẩm để mở cho chúng ta cuộc sống hòa bình ngày nay. Chúng ta đang sống trong một xã hội không ai có quyền hủy hoại bàn tay của người khác. Mọi người quý trọng bàn tay của mọi người” (cuối truyện). - Con Cóc là cậu ông Giời: “Các em hãy trông con cóc kia. Hình thù nó xấu. Da nó sần sùi. Người ta có cảm tưởng rằng nó rất bẩn. Có người vừa thấy nó là đã rú lên rồi. Cóc sống một cuộc đời tối tăm. Nó không muốn ló ra ngoài, hình như nó cũng thấy rằng nó không được đẹp mắt cho lắm. Nhưng khoan! Đừng ghét nó mà tội nghiệp” (đầu truyện); “Từ đấy mỗi khi cóc TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 6 (250) 2019 55 nghiến răng thì thường thường là giời mưa xuống. Cóc oai như thế nên các cụ ta còn gọi Cóc là cậu ông Giời. Các cụ còn khuyên mọi người không nên đánh cóc. Tuy xấu xí nhưng nó rất có công và tốt bụng” (cuối truyện). Nội dung các trích đoạn trên là thông điệp cuộc sống mà nhà văn muốn truyền dạy cho các em. Cụ thể, đó là thái độ trân quý bánh chưng ngày Tết vì nó “mới thơm tho, mới ngon lành, mới quý”; là cách nhìn vật, nhìn người không qua hình thức, như con cóc “tuy xấu xí nhưng rất có công và tốt bụng”; và “không ai có quyền hủy hoại bàn tay của người khác”. Trong các thông điệp đó, từ láy xuất hiện ít nhưng gần như giữ vai trò “nhãn tự”, thể hiện một cách khái quát nhất, cốt lõi nhất tư tưởng tình cảm của nhà văn. Phổ biến hơn, đó là kết hợp biểu cảm với miêu tả, thông qua miêu tả nhà văn kín đáo gửi gắm tình cảm của mình vào trong từng câu chữ, trong đó có các từ láy. Chẳng hạn, trong đoạn văn nói về chị em Tấm sau đây, chúng ta thấy rõ lòng yêu mến Tấm của tác giả khi ông sử dụng hình thức miêu tả so sánh đối lập với sự tham gia của một số từ láy chỉ phẩm chất con người: “Má Tấm trắng hồng hồng, mặt Cám thì sần sùi da cóc (). Tấm chăm chỉ, ngoan ngoãn, lễ phép, thực thà bao nhiêu, thì Cám lười biếng, bướng bỉnh, hỗn láo, gian giảo bấy nhiêu” (Truyện Tấm Cám). Hoặc, trong những câu chữ sau, người đọc cảm nhận được sự đồng cảm sâu xa của nhà văn trước nỗi đau da thịt mà nhân vật Bẩm đang trải qua: “Hai bàn tay bị đốt quẫy quẫy. Anh thít lên. Hai hàm răng anh nghiến lại. Thịt anh bắt đầu cháy xèo xèo, khét khét như mùi súc vật bị thui”; “Anh đành chống tay xuống cát, chịu đựng sự hành hạ của đàn kiến lửa. Nước mắt Bẩm chảy ròng ròng” (Hai bàn tay chiến sĩ) Trong trường hợp này, sự tỏa sáng của từ láy rất cần tới nghệ thuật sử dụng khéo léo của nhà văn. Đối với người đọc, ngoài việc ngẫm từ trong ngữ cảnh còn cần phải biết hệ thống, gắn kết các từ lại với nhau để thông tin miêu tả và biểu cảm được tiếp nhận đầy đủ, trọn vẹn hơn. 3. KẾT LUẬN Xuất phát từ yêu cầu miêu tả và biểu cảm, Nguyễn Huy Tưởng đã sử dụng một số lượng lớn từ láy trong truyện thiếu nhi của ông. Điều đó đảm bảo cho từ láy trở thành một thành phần cơ bản trong hệ thống ngôn ngữ truyện thiếu nhi. Đặc điểm chung của hệ thống từ láy trong truyện thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng là sự áp đảo của các từ láy đôi, sự quen thuộc và sáng rõ về mặt ý nghĩa từ vựng. Các từ láy đã được Nguyễn Huy Tưởng sử dụng vào việc tái hiện bức tranh đời sống lao động và chiến đấu của cha ông xưa cũng như nay. Trên cơ sở miêu tả đó, các từ láy cũng đồng thời truyền tải thái độ, tình cảm của nhà văn đối với con người và hiện thực. Tựu trung, đó là tình cảm tự hào, mến yêu của nhà văn đối với các giá trị vật chất, tinh thần do LÊ NHẬT KÝ – GIÁ TRỊ THẨM MỸ CỦA TỪ LÁY TRONG TRUYỆN 56 cha ông tạo dựng và lưu truyền cho muôn đời. Việc sử dụng từ láy một cách thường xuyên đã góp phần làm nên lớp văn miêu tả trong truyện thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng. Điều đó khiến cho tác phẩm của ông mang phong cách truyện ngắn hiện đại, phù hợp và hấp dẫn thật sự đối với bạn đọc thiếu nhi. Đây là một kinh nghiệm tốt, hữu ích đối với việc rèn dạy học sinh làm văn miêu tả trong bối cảnh giáo dục hiện nay. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Hà Quang Năng. 2005. Dạy và học từ láy trong nhà trường phổ thông. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 2. Lê Huy Anh. 2001. “Truyện Tìm mẹ”, Nguyễn Huy Tưởng khát vọng một đời văn. Hà Nội: Nxb. Văn học. 3. Nguyễn Huy Tưởng. 2013. Những truyện hay viết cho thiếu nhi. Hà Nội: Nxb. Kim Đồng. 4. Nguyễn Thị Huế. 2014. “Thế giới cổ tích của Nguyễn Huy Tưởng”, truy cập ngày 6/9/2018. 5. Phong Thu. 1999. Tuyển tập truyện viết cho thiếu nhi từ sau cách mạng tháng Tám. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 6. Tô Hoài. 2004. 101 truyện ngày xưa. Hà Nội: Nxb. Văn học. 7. Viện Ngôn ngữ học. 2001. Từ điển tiếng Việt, Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm từ điển. 8. Viện Văn học. 2007. Tuyển tập văn học dân gian, Tập II, quyển 1. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.
File đính kèm:
- gia_tri_tham_my_cua_tu_lay_trong_truyen_thieu_nhi_nguyen_huy.pdf