Dự phòng tái phát sau đột quị ở bệnh nhân rung nhĩ - Hồ Huỳnh Quang Trí
Thuốc kháng vitamin K so với clopidogrel + ASA
Nghiên cứu ACTIVE W
- TNLS phân nhóm
ngẫu nhiên
- Đối tượng: 6706 bệnh
nhân rung nhĩ kèm ≥ 1
YTNC đột quị
- Can thiệp: Thuốc
kháng vitamin K (INR
2-3) hoặc phối hợp
clopidogrel (75 mg) +
ASA (75-100 mg)
Dự phòng tái phát sau đột quị ở bệnh nhân rung nhĩ TS Hồ Huỳnh Quang Trí Viện Tim TP HCM Disclosure • Báo cáo viên cho: Boehringer-Ingelheim, Bayer Các dạng đột quị trên lâm sàng (UCLA Stroke Center 2010) Large Vessel 35% Cardioembolic 25% Lacunar 20% Other 5% Ischemic 85% ICH 10% SAH 5% Hemorrhagic 15% Lacunar Thuốc kháng vitamin K so với clopidogrel + ASA Nghiên cứu ACTIVE W Lancet 2006;367:1903-1912 - TNLS phân nhóm ngẫu nhiên - Đối tượng: 6706 bệnh nhân rung nhĩ kèm ≥ 1 YTNC đột quị - Can thiệp: Thuốc kháng vitamin K (INR 2-3) hoặc phối hợp clopidogrel (75 mg) + ASA (75-100 mg) Tần suất dồn đột quị Nhược điểm của warfarin (và các thuốc kháng vitamin K nói chung) • Bắt đầu tác dụng chậm • Tương tác với thức ăn và thuốc (+++) • Hiệu quả chống đông không dự báo được • Phải theo dõi INR định kỳ • Cửa sổ trị liệu hẹp Điều trị chống đông trong rung nhĩ không do bệnh van tim (ACC/AHA/HRS 2014) Class I • Ở bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim có tiền sử đột quị, cơn thiếu máu cục bộ não thoáng qua hoặc CHA2DS2-VASC ≥ 2, thuốc chống đông uống được khuyến cáo dùng. Lựa chọn gồm: warfarin (INR 2.0-3.0), dabigatran, rivaroxaban hoặc apixaban. • Ở bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim không thể duy trì INR trong khoảng trị liệu với warfarin, việc dùng dabigatran, rivaroxaban hoặc apixaban được khuyến cáo. • Chức năng thận cần được đánh giá trước khi bắt đầu dabigatran, rivaroxaban hoặc apixaban và cần được đánh giá lại khi có chỉ định lâm sàng và ít nhất mỗi năm một lần. • Thuốc KVK (class I), apixaban (class I) và dabigatran (class I) đều được chỉ định nhằm phòng ngừa đột quị tái phát ở bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim, dù là kịch phát hay thường trực. Việc lựa chọn thuốc cần được cá thể hóa dựa trên các YTNC, chi phí, sự dung nạp, sở thích của bệnh nhân, tiềm năng tương tác thuốc và những đặc điểm lâm sàng khác, bao gồm chức năng thận và tỉ lệ thời gian INR trong khoảng trị liệu nếu bệnh nhân đã từng dùng thuốc KVK. • Việc dùng rivaroxaban là hợp lý nhằm phòng ngừa đột quị tái phát ở bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim (class IIa). Stroke 2014;45 • Đối với bệnh nhân đột quị dạng TMCB hoặc cơn TMCB não thoáng qua (TIA) và rung nhĩ không thể dùng thuốc chống đông uống, aspirin đơn trị được khuyến cáo (class I). Phối hợp clopidogrel với aspirin có thể hợp lý (class IIb). • Đối với đa số bệnh nhân đột quị dạng TMCB hoặc TIA có rung nhĩ, có thể bắt đầu điều trị chống đông uống trong vòng 14 ngày sau biến cố cấp (class IIa). • Khi có nguy cơ cao chuyển dạng xuất huyết (nhồi máu lớn, chuyển dạng xuất huyết trên khảo sát hình ảnh ban đầu, tăng HA không kiểm soát hoặc khuynh hướng chảy máu), nên bắt đầu thuốc chống đông uống sau 14 ngày (class IIa). Stroke 2014;45 • Ở bệnh nhân đột quị dạng TMCB hoặc TIA không rõ nguyên nhân, việc theo dõi nhịp tim kéo dài (# 30 ngày) để tầm soát rung nhĩ là hợp lý trong vòng 6 tháng sau biến cố cấp (class IIa). • Lợi ích của việc bít tiểu nhĩ trái bằng dụng cụ WATCHMAN ở bệnh nhân đột quị dạng TMCB hoặc TIA và rung nhĩ chưa được xác định rõ (class IIb). Stroke 2014;45
File đính kèm:
- du_phong_tai_phat_sau_dot_qui_o_benh_nhan_rung_nhi_ho_huynh.pdf