Dụ ngôn trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh
Tóm tắt
Trong tiểu thuyết lịch sử, yếu tố lịch sử chỉ là một ký hiệu để mã hóa, tạo sinh ý nghĩa. Việc mã hóa đó
tạo nên những mặt nạ ngôn ngữ đặc trưng, hình thành các loại hình, xu hướng khác nhau. Từ những
phân tích cụ thể về tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, chúng tôi đem đến một góc tiếp cận lý thuyết
khác về thể loại tiểu thuyết lịch sử, đi sâu nghiên cứu mô hình cấu trúc của ký hiệu học, thực hiện một
chiến lược giao tiếp riêng với sự tham gia của các yếu tố: Chủ thể phát ngôn – đối tượng tiếp nhận và
bức tranh thế giới riêng trong một hình thức ngôn ngữ đặc thù. Tiếp cận tiểu thuyết lịch sử như vậy sẽ
tránh được những tranh luận không đáng có về vấn đề sự thật và hư cấu. Bởi xét đến cùng, thể loại
chẳng qua là một sự thỏa thuận để thực hiện các quy ước trong chiến lược giao tiếp diễn ngôn giữa chủ
thể và đối tượng tiếp nhận.
ế giới mà Nguyễn Xuân Khánh tạo dựng là mô hình tam vị nhất thể. Ba cụm chủ thể lựa chọn tạo nên bộ xương vững chắc như ba đỉnh của thế chân vạc trong cấu trúc truyện kể lịch sử. Cái bài học sâu sắc về sự hài hòa của âm – dương, của tiếp nhận – bảo tồn, của cá nhân – cộng đồng, biến động – tĩnh tại... đã được ông đúc rút từ bao vật đổi sao dời, bao phen đất nước nghiêng ngả, bao lẽ hưng phế. 2.3. Kết cấu – hình thức ngôn ngữ độc đáo thể hiện bài học Nếu chỉ nhìn bề mặt và về tổng thể thì cả ba tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh đều sử dụng lối viết truyền thống theo kết cấu của tiểu thuyết cổ điển. Nó vẫn là những đại tự sự với việc phân chia thành các phần lớn, nhỏ, các chương, mục với những tên gọi cụ thể. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều đó khi đọc tác phẩm: Hồ Quý Ly chia thành 13 phần và mỗi phần này lại chia thành các mục đánh dấu bằng các số theo thứ tự từ nhỏ đến lớn; Mẫu Thượng Ngàn chia thành 15 chương và được đặt tên gọi tương tự; Đội gạo lên chùa chia thành 3 phần lớn: “Trôi sông”, “Bão nổi can qua” và “Về cõi nhân gian”. Mỗi phần lớn lại chia thành các mục, với số lượng nhiều ít không đều nhau, nhưng tất cả đều được đặt tiêu đề cụ thể. Việc bố trí các phần, các mục như trên ở trong cả ba cuốn tiểu thuyết đã tạo nên một đường viền, một khung khổ bao chứa các sự kiện, biến cố, các tình tiết của các câu chuyện được kể. Các thành tố cấu tạo nên bộ khung đó liên kết chặt chẽ hay lỏng lẻo là do sự lựa chọn của tác giả, chuyển tải những thông điệp nghệ thuật và bài học của mình. Với Nguyễn Xuân Khánh, khung ông tạo dựng cho kết cấu tác phẩm là cái khung lớn, còn kết cấu chi tiết bên trong tương đối linh hoạt, cơ động, hay nói theo cách khác ông chỉ định dạng chứ không định lượng cho tác phẩm của mình theo kết cấu NGÔ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 11 truyền thống. Ta dễ nhận ra ông chọn bối cảnh của một triều đại, một giai đoạn lịch sử, với những điểm nút diễn biến chính theo đúng sự thật trong diễn ngôn lịch sử giống như những cái cột, cái kèo, tạo ra những điểm tựa cho khung kết cấu. Kết cấu tác phẩm của ông không có một truyện kể trung tâm, hành động chính yếu, xuyên suốt, chi phối các hành động, truyện kể khác. Mỗi phần, mỗi mục trong tác phẩm của ông kể một chuyện, dựng một chân dung, miêu tả một khung cảnh tạo nên cấu trúc nhiều bè, nhiều mảng, cấu trúc của những mảnh ghép kiến tạo bức tranh chung. Các tuyến/ lớp truyện kể, các phối cảnh trong tác phẩm của ông thường soi chiếu, tương tác trong thế đối thoại làm nới rộng khung, theo kiểu kiến trúc nhiều tầng bậc, chuyển tải những bài học đằng sau nó. Như thế, những lớp phần của những truyện kể sẽ tương ứng với các lớp, phần của những bài học, những triết lý tương tự như trong dụ ngôn và ngụ ngôn truyền thống. Sáng tạo độc đáo của Nguyễn Xuân Khánh khi viết tiểu thuyết lịch sử là việc tạo ra “kết cấu thời gian lỏng”. Ông phá vỡ trật tự thời gian biên niên, không đặt những mốc thời gian, những sự kiện lịch sử cố định trong mỗi tác phẩm. Ý niệm về lịch sử trong những tác phẩm này chỉ là sự chuyển giao: chuyển giao triều đại Trần sang Hồ (Hồ Quý Ly); chuyển giao chế độ, văn hóa, tư tưởng và hành động (Mẫu Thượng Ngàn); chuyển giao thời đại, giai đoạn lịch sử (Đội gạo lên chùa). Đặc biệt, cả ba tác phẩm đều được kể theo một quy trình đảo lộn trật tự thời gian tuyến tính, khởi đầu bằng một sự kiện ở hiện tại, rồi ngược về quá khứ, sau đến các sự kiện, tình tiết của hiện tại nối tiếp đến một kết thúc. Quá khứ và hiện tại tiếp diễn cứ lần lượt được tái hiện qua lời của người kể chuyện, nhất là qua lời của bản thân các nhân vật tự thuật. Cho đến lúc kết thúc tác phẩm, những câu chuyện đó vẫn không hết, không dừng mà còn tiếp diễn. Chính điều đó khiến nhà văn viết về lịch sử, về cái đã qua nhưng thực ra là nói về hiện thực đang diễn ra, chưa hoàn kết, thể hiện được những vấn đề của ngày hôm nay, cả những vấn đề thời sự. Những chuyện như cải cách, đổi mới đất nước, tiếp thu và bảo tồn văn hóa truyền thống, chuyện của cái thiện và ác... đâu chỉ là chuyện của một thời, mà là chuyện của mọi thời, mọi dân tộc trong tiến trình lịch sử phát triển, tồn vong. Liên quan mật thiết đến trình tự thời gian truyện kể là cách thức mở đầu và kết thúc mà tác giả lựa chọn cho tác phẩm. Các chi tiết mở đầu và kết thúc tác phẩm được Nguyễn Xuân Khánh gia công lựa chọn, xử lý tinh tế. Chúng lặp lại nhưng không hoàn toàn giống, trùng khít với nhau. Nhìn bề ngoài, ta dễ lầm tưởng Nguyễn Xuân Khánh kết cấu tác phẩm của mình theo nguyên tắc hồi hoàn, đầu cuối tương ứng. Song khi đi sâu tìm hiểu ý nghĩa của các mô hình mở đầu và kết thúc này trong cấu trúc truyện kể, ta sẽ thấy chúng tương ứng với một lớp truyện được đan cài, lồng xếp vào tác phẩm. Về thực chất, theo chúng tôi thì đây là “kiểu kết cấu đầu cuối song trùng mà đối lập”. Song trùng vì cả hai giống nhau ở cái hình thức bên ngoài – cùng một típ truyện, còn đối lập là ở ý nghĩa thực của chúng trong cấu trúc tác phẩm. Quan sát kỹ chúng ta sẽ thấy, tất cả các mô hình mở đầu đều mang ý nghĩa một cái kết cục đã rồi, một kết quả đã hoàn thành và không thể khác. Còn các mô hình kết thúc lại tạo ra những sự bắt đầu, làm nảy sinh, tạo tác một cái mới. Theo nhà nghiên cứu Lã SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (03/2019) 12 Nguyên thì đó là hai lớp truyện: lớp “chung cục” ở trên cùng, tương ứng với phần mở đầu và tiếp theo đó là lớp “khởi nguyên” ứng với phần kết thúc (Lã Nguyên, 2018, tr.268 - 269). Như thế mở đầu tự nó mang trong mình một sự kết thúc, một sự phá vỡ, hủy diệt, còn kết thúc lại tạo ra những bắt đầu, những khởi nguyên mới của sự vật. Như vậy, Nguyễn Xuân Khánh đã lựa chọn được một ngôn ngữ hữu dụng để chuyển tải – ngôn ngữ kết cấu. Mỗi tác phẩm của ông là sự đan xen, hòa quyện nhiều lớp truyện, nhiều tuyến truyện, tạo ra những mô hình kết cấu riêng có thể khái quát như sau: Chủ thể (nhân vật) – Không gian – sự kiện (biến cố truyện kể) gắn với các lớp nghĩa của: Cái chung cục (hoàn tất) – cái diễn tiến của sự kiện – cái khởi đầu của những câu chuyện mới. Tất cả được thể hiện bằng những mã truyện kể, mã nghệ thuật riêng, mà nổi bật là mã lịch sử - văn hóa, là những câu chuyện đời những câu chuyện thế sự chen vào chuyện của lịch sử, chính biến. 3. Kết luận Với tư duy nghệ thuật, cách nhìn, xử lý chất liệu lịch sử riêng, Nguyễn Xuân Khánh đã tạo nên một mô hình cấu trúc truyện lịch sử đặc thù – mô hình dụ ngôn lịch sử. Trong mô hình đó, ta thấy một chiến lược giao tiếp diễn ngôn được thực hiện với những đặc điểm đặc trưng của chủ thể sở đắc chân lý, mang sẵn những bài học để chuyển tải, chia sẻ; bức tranh thế giới được tạo nên bởi những chủ thể lựa chọn; ngôn ngữ mang tính ám dụ, tạo ra ẩn ngữ bằng các biểu tượng và kết cấu đan xen nhiều lớp, nhiều tầng. Mô hình cấu trúc này có cội nguồn sâu xa từ trong kho tàng ký ức thể loại của văn học dân gian, cũng là một loại hình diễn ngôn độc đáo về lịch sử. Cấu trúc dụ ngôn giúp nhà văn dung hòa được nhiều yếu tố như lịch sử, văn hóa, tôn giáo, tâm linh trong tác phẩm, đặt ra những vấn đề thời sự và thời đại. Mục đích cuối cùng của những dụ ngôn lịch sử không phải là sử mà là các thông điệp, bài học về lẽ sống, đạo lý, tư tưởng, ý thức hệ, quy luật vận động của thời thế, xã hội. Do đó, đằng sau bề mặt cấu trúc truyện kể truyền thống là những vỉa tầng truyện kể khác, nhiều khi mới mẻ, khác lạ về các nhân vật, sự kiện lịch sử đã đóng khung, thành chuẩn mực. Cho nên, các tiểu thuyết của ông có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức về lịch sử và thực tại, hình thành nhãn quan, tư tưởng riêng về các vấn đề của thời đại, xã hội và con người. Góc nhìn của ký hiệu học văn hóa và lý thuyết diễn ngôn trên cơ sở đi tìm hạt nhân cấu trúc thể loại, đưa ra những mô hình ký hiệu học lịch sử sẽ tìm ra các mã, các gen thể loại. Phương pháp này sẽ giúp ta lý giải được những hiện tượng văn học phức tạp, đưa ra góc nhìn mới về đặc trưng các thể loại, chia ra từng xu hướng, phong cách thể loại. Khi ấy, thể loại được quan niệm như một sự thỏa thuận giữa chủ thể và đối tượng tiếp nhận để thực hiện một chiến lược giao tiếp diễn ngôn. Do đó, bình diện lịch sử văn học cũng sẽ được tổng kết, nhìn nhận lại từ quá trình vận động, tiếp biến, làm mới những mô hình cấu trúc nền móng cổ xưa. NGÔ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO Chiupa, V.I. (2013). Diễn ngôn như là một phạm trù của tu từ học và thi pháp học hiện đại. Phê bình văn học phiên bản điện tử đăng ngày 08/4/2013. Lã Nguyên dịch. Truy xuất từ: http: //phebinhvanhoc.com.vn/ Nguyễn Xuân Khánh (2012). Mẫu Thượng Ngàn (In lần thứ 6). Hà Nội. NXB Phụ nữ. Lã Nguyên (2018). Phê bình ký hiệu học: Đọc văn như là hành trình tái thiết ngôn từ. Hà Nội. NXB Phụ nữ. Tamarchenko, N.D. (2015). Dụ ngôn. Phê bình văn học phiên bản điện tử đăng ngày 04/02/2015. Lã Nguyên dịch từ bản tiếng Nga Поэтика//Словарь актуальных терминов и понятий.- Изд. Кулагиной, Intrada.- 2008. Cтр. 187-188. Truy xuất từ: http: //phebinhvanhoc.com.vn/ TÀI LIỆU CÓ LIÊN QUAN Bakhtin, M. (2003). Lý luận và thi pháp tiểu thuyết. Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn và dịch. Hà Nội: NXB Hội Nhà văn. Nguyễn Xuân Khánh. (2012). Hồ Quý Ly (In lần thứ 10). Hà Nội: NXB Phụ nữ. Nguyễn Xuân Khánh. (2012). Đội gạo lên chùa (In lần thứ 3). Hà Nội: NXB Phụ nữ. Lotman, Iu.M. (2016). Ký hiệu học văn hóa. Lã Nguyên – Đỗ Hải Phong – Trần Đình Sử dịch. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Lã Nguyên. (2012). Lý luận văn học: Những vấn đề hiện đại. Hà Nội: NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. Trần Đình Sử. (2005). Dẫn luận thi pháp học. Hà Nội: NXB Giáo dục. Ngày nhận bài: 01/9/2017 Biên tập xong: 15/3/2019 Duyệt đăng: 20/3/2019
File đính kèm:
- du_ngon_trong_tieu_thuyet_lich_su_cua_nguyen_xuan_khanh.pdf