Đổi mới tư duy, nhận thức xã hội về kinh tế thể thao, định vị kinh tế thể thao ở Việt Nam

1. Kinh tế thể thao: Lý luận và thực tiễn

Kinh tế thể thao là một bộ phận của nền kinh

tế quốc dân. Kinh tế thể thao là một lĩnh vực

kinh doanh như mọi ngành kinh doanh trên thị

trường; cung cấp hàng hóa, dịch vụ TDTT cho

nhu cầu xã hội để thu hoặc không thu lợi nhuận.

Kinh doanh các hoạt động TDTT là cơ sở của

kinh tế thể thao và trong nền kinh tế thị trường

hiện hữu với tư cách là một ngành công nghiệp

được gọi là công nghiệp thể thao (Sport

Industry).

Kinh thế thể thao là một khoa học chuyên

ngành kinh tế có nhiệm vụ tác động vào hoạt

động kinh doanh TDTT theo các quy luật, quy

tắc, quan hệ thị trường với cơ chế vận hành kết

hợp “bàn tay vô hình” của thị trường và “bàn

tay hữu hình” của Nhà nước. Kinh tế thể thao

theo nghĩa rộng bao gồm các hoạt động kinh tế

liên quan trực tiếp hoạt động TDTT (tập luyện,

thi đấu,.) cũng như gián tiếp phục vụ cho các

hoạt động TDTT như sản xuất, cung cấp các

dịch vụ hàng hóa, dịch vụ liên quan đến hoạt

động TDTT (trang thiết bị, dụng cụ truyền

thông, marketing, cá cược, chứng khoán, ).

Theo nghĩa hẹp, kinh tế thể thao chỉ bao gồm

các hoạt động kinh tế liên quan trực tiếp tới hoạt

động TDTT

pdf5 trang | Chuyên mục: Giáo Dục Thể Chất | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 587 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Đổi mới tư duy, nhận thức xã hội về kinh tế thể thao, định vị kinh tế thể thao ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
tuân thủ theo các quy định pháp luật.
Đẩy mạnh hoạt động thể thao chuyên nghiệp
theo xu thế xã hội hóa.
Chuyên nghiệp hóa thể thao ở Việt Nam thực
chất là sự đổi mới cơ chế quản lý và đầu tư cho
thể thao theo hướng xã hội hóa, xóa bỏ cơ chế
tập trung, quan liêu bao cấp. Đó chính là giải
pháp quan trọng nhằm đưa trình độ thể thao và
quản lý thể thao ở nước ta lên một trình độ mới
với chất lượng và hiệu quả cao hơn. Thể thao
nghiệp dư hay “chuyên nghiệp nhà nước” theo
cách bao cấp không tạo nên được tính chuyên
nghiệp và tính thương mại theo cơ chế thị
trường, thậm chí còn là nguyên nhân của sự thụ
động, ỷ lại, thiếu trách nhiệm của nhiều người
trong guồng máy quản lý thể thao.
Với những điều kiện đặc thù về chính trị,
kinh tế, xã hội trong giai đoạn chuyển đổi sang
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định
hướng XHCN của Nhà nước, thì việc vận dụng
các nguyên tắc tổ chức, biện pháp quản lý và hệ
thống chính sách trong việc phát triển thể thao
chuyên nghiệp theo xu hướng thị trường cần
phải mềm dẻo và linh hoạt mới có thể khai thác
hết các tiềm năng của xã hội, đặc biệt trong mô
hình tổ chức CLB thể thao chuyên nghiệp theo
hướng doanh nghiệp thể thao.
Khâu đột phá là đổi mới cơ chế quản lý, hình
thành CLB thể thao chuyên nghiệp tự quản để
chuyển sang chế độ tự bù đắp chi phí. Nhà nước
(ở giai đoạn đầu) vẫn tiếp tục đầu tư cho các
CLB thể thao chuyên nghiệp, nhưng không đầu
tư theo cách “bao cấp”, mà tạo vốn, tạo cơ chế
để phát huy sự tự chủ của các CLB. Do đó phải
hình thành các cơ chế liên kết, chia sẻ lợi nhuận,
hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhà tài trợ, giới doanh
nghiệp, cơ quan truyền thông đại chúng với
những phương thức quản lý dân chủ nghiêm
ngặt bằng những quy chế và luật mang tính xã
hội. Trong cơ chế chuyên nghiệp theo hướng
doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh, sự quản lý
của Nhà nước sẽ tập trung vào sự định hướng,
tạo điều kiện kiểm soát hoạt động và chỉ can
thiệp vào những vấn đề liên quan đến việc thực
hiện những định hướng chính trị và pháp luật.
3. Định hướng vị trí kinh tế thể thao ở
Việt Nam
Nghiên cứu về kinh tế thể thao ở các nước có
nền thể thao tiên tiến cho thấy kinh tế thể thao
mang lại 4 nhóm lợi ích cơ bản cho nền kinh tế
(GDP) của họ.
- Giảm thiểu tổn thất kinh tế liên quan tới các
vấn đề an sinh xã hội
- Kéo dài tuổi thọ người dân bằng các yếu tố
sức khỏe ảnh hưởng đến sự gia tăng khả năng
lao động của con người.
- Giúp chuẩn bị nguồn lực lao động, đảm bảo
cho sự tăng trưởng kinh tế.
- Đảm bảo công ăn, việc làm và đóng góp
vào ngân sách quốc gia.
Vai trò và vị trí của kinh tế thể thao trong nền
kinh tế quốc dân thể hiện ở sự tác động kinh tế
trực tiếp và gián tiếp.
Tác động kinh tế trực tiếp
+ Tạo nguồn thu và làm tăng quy mô nền
kinh tế quốc gia:
17
- Sè 1/2019
- Mỹ: Kinh doanh thể thao chiếm tỷ trọng hơn
2,4% GDP, đứng thứ 11/25 ngành kinh doanh
hàng đầu của nước Mỹ. Quy mô tổng thị trường
đạt 400 – 435 tỷ USD mỗi năm, gấp 2 lần ngành
công nghiệp ô tô và 7 lần ngành điện ảnh.
- Trung Quốc: Hiện là nước sản xuất hàng
hóa thể thao lớn nhất thế giới: Chiếm 70% hàng
hóa thể thao. Năm 2011 giá trị gia tăng của các
doanh nghiệp thể thao Trung Quốc vượt mức
300 tỷ NDT, chiếm 1,2% GDP.
- Anh: Tốc độ tăng trưởng trong kinh doanh
thể thao đã vượt tốc độ tăng trưởng chung của
nền kinh tế Anh trong hai thập kỷ gần đây và đạt
140%. Tổng chi tiêu dùng ở Anh là 17.384 tỷ
bảng (năm 2008) và đóng góp cho ngân sách
quốc gia là 16 – 17 tỷ bảng/ năm.
Theo thống kê mới nhất của công ty Dloite
Tomche Tohmasu, nguồn thu của giải Bóng đá
nhà nghề Anh (Premier League) trong mùa giải
2004 – 2005 là 1,98 tỷ euro thì đến mùa giải
2014 – 2015 đã tăng lên tới 4,4 tỷ Euro; Nguồn
thu của CLB Manchester United là 310 triệu
Euro (mùa giải 2005 – 2006) đến mùa giải 2013
– 2014 là 502 triệu Euro.
- Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước Châu
Âu, nghành kinh doanh thể thao đã đóng góp từ
2,0 – 2,5% GDP.
- Ở Malaysia, hoạt động kinh doanh liên
quan đến thể thao năm 2009 đã có doanh thu
30,2 tỷ Ringgit - chiếm gần 5% GDP và tạo ra
việc làm cho 126.900 người, tương ứng với
1,4% tổng số người lao động ở Malaysia.
+ Tạo việc làm và thu nhập xã hội:
- Anh: Số lượng người tham gia vào các công
việc liên quan đến thể thao tăng liên tục, chiếm
khoảng 2% lực lượng lao động.
- Mỹ: Theo thống kê chính thức của Cục lao
động Mỹ năm 2011 có gần 1,3 triệu người làm
việc trong lĩnh vực thể thao.
- Trung Quốc: Theo số liệu điều tra năm
2008, có 38,5% người dân Trung Quốc tham gia
tập luyện thường xuyên nên số lượng người
phục vụ tăng theo và đạt tới 1,5 vạn công ăn
việc làm.
Tác động gián tiếp
+ Tăng năng suất lao động xã hội:
Nhờ có tham gia hoạt động TDTT tích cực
nên người dân được tăng cường thể chất, đề
kháng chống lại bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và qua
đó tăng khả năng và hiệu suất lao động của họ.
Gián tiếp giảm chi phí xã hội cho chữa bệnh,
khắc phục các tệ nạn xã hội như nghiện rượu,
ma túy, cờ bạc,
Một nền kinh tế bền vững cần có các nguồn
lực tăng trưởng phát triển bền vững, trong đó
nguồn lực con người khỏe mạnh về thể chất và
tinh thần là nhân tố quyết định.
+ Nâng cao hình ảnh quốc gia và tăng
cường gắn kết cộng đồng:
Nhiều hoạt động TDTT đã tác động, ảnh
hưởng tích cực tới đời sống xã hội như bóng đá,
bóng chuyền, làm khuấy động tinh thần dân
tộc, kết nối mọi người (Thí dụ: Thành công của
đội U23 Việt Nam tại giải U23 Châu Á năm
2018)
4. Định vị kinh tế thể thao trong nền kinh
tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Trong nền kinh tế chuyển đổi (Transition
Economy) sang nền kinh tế thị trường cần xác
định thể thao không chỉ mang tính chất văn hóa,
giải trí mà còn mang tính chất kinh doanh và
tính chất kinh doanh này sẽ ngày càng tăng cùng
với sự hấp dẫn nhu cầu xã hội cũng như cơ hội
tìm kiếm lợi nhuận từ kinh doanh. Hoạt động
thể thao cần được đặt trên nền tảng kinh tế thị
trường, cần được thương mại hóa.
Mô hình của nền kinh tế thị trường là mô
hình nền kinh tế hỗn hợp giữa “bàn tay vô hình”
của thị trường với “bàn tay hữu hình” của Nhà
nước. Thị trường cần có sự quản lý của Nhà
nước vừa để định hướng hoạt động của thị
trường vào các mục tiêu phát triển (ngắn, trung,
dài hạn) của Nhà nước, của xã hội vừa để hạn
chế các tác động tiêu cực của thị trường đối với
xã hội.
Thị trường TDTT có một số đặc điểm làm
cho mối quan hệ Nhà nước – Thị trường hay vai
trò của Nhà nước đối với thị trường trở nên đặc
biệt hơn, nhất là quá trình hình thành thị trường
TDTT được thể hiện ở nhu cầu của xã hội đối
với sự phát triển TDTT và đặc thù hàng hóa,
dịch vụ TDTT.
+ Về nhu cầu: TDTT thuộc loại nhu cầu cơ
bản vì mỗi người đều muốn khỏe mạnh và
TDTT là phương tiện hữu hiệu nhất giúp cho
con người khỏe mạnh. Xã hội cũng cần có
Lý luËn vµ thùc tiÔn thÓ dôc thÓ thao
18
nguồn nhân lực khỏe mạnh về thể chất và tinh
thần. Nhu cầu về sức khỏe của người tiêu dùng
luôn sẵn có và không thay đổi cùng với mức thu
nhập ngày càng tăng (nhu cầu có khả năng thanh
toán) có xu hướng tăng lên.
+ Về đặc thù hàng hóa, dịch vụ TDTT: Bên
cạnh những thuộc tính cơ bản của hàng hóa còn
có đặc điểm mang tính chất hàng hóa công cộng.
Do vậy Nhà nước cần quan tâm cung cấp hàng
hóa dịch vụ TDTT thông qua tổ chức thị trường.
Vai trò bà đỡ, khuyến khích tạo đà cho sự ra đời
và phát triển ở giai đoạn đầu với phương châm
“những gì tư nhân làm được và hiệu quả hơn thì
để tư nhân làm”. Nhà nước chỉ nên đảm nhận
cung cấp hàng hóa, dịch vụ TDTT nào mà tư
nhân chưa làm được (lợi nhuận thấp, rủi ro cao),
đồng thời cũng tạo điều kiện để tư nhân có thể
tham gia hợp tác với định hướng để chuyển dần
cho tư nhân đảm nhận.
Quan hệ cung - cầu là yếu tố cơ bản của nền
kinh tế thị trường. Với việc tăng cầu do các yếu
tố kinh tế xã hội thì việc cung về hàng hóa dịch
vụ TDTT cũng có xu hướng tăng lên trong nền
kinh tế thị trường nếu như việc cung cấp này có
thể đem lại lợi nhuận.
Do đó: Cần có môi trường kinh doanh sao
cho việc kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch
vụ TDTT có thể đem lại lợi nhuận đủ để tạo mối
quan tâm đầu tư kinh doanh.
Đối với hàng hóa dịch vụ
TDTT còn chưa tạo được sự
quan tâm đầu tư kinh doanh
của tư nhân (TDTT cho một
người) thì đầu tư nhà nước cần
đi trước với sứ mạng là bà đỡ,
hỗ trợ cho đến khi tạo ra được
sự quan tâm đầu tư kinh doanh
của tư nhân.
Trong nền kinh tế hiện đại
và hội nhập, kinh doanh TDTT
không cần bao gồm tất cả các
khâu, còn có công đoạn sản
xuất, kinh doanh có liên quan
mà có thể hợp tác, liên kết, hội
nhập vào chuỗi hay chùm giá
trị hàng hóa, dịch vụ về TDTT.
Cơ sở cho sự liên kết, hội nhập
chuỗi hay chùm này là lợi thế
so sánh với chất kết dính lợi ích kinh tế có thể
thu được từ hợp tác, liên kết hội nhập ấy. Một
nước đi sau như nước ta không nhất thiết phải
xây dựng từ đầu một ngành kinh tế mới hoàn
chỉnh mà có lợi thế so sánh và có thể thu lợi
nhuận một cách bền vững.
Việt Nam có thể tận dụng các cơ hội kinh
doanh các sự kiện thể thao quốc tế (Sea Games,
Asiad, AFF, AFC Cup,) như là nhu cầu (và
cầu) về hàng hóa, dịch vụ TDTT để hình thành,
thậm chí định vị chuyên môn hóa của quốc gia
vào chuỗi (hay chùm) giá trị hàng hóa, dịch vụ
toàn cầu trên cơ sở lợi thế so sánh quốc gia.
Tài liệu tham khảo:
1. Phạm Ngọc Viễn (2000), Khả năng hình
thành các CLB bóng đá bán chuyên nghiệp ở
nước ta trong giai đoạn 2000 – 2005, Hà Nội.
2. Phạm Ngọc Viễn (2012), Cơ sở để hình
thành nền thể thao chuyên nghiệp, Hà Nội.
3. Phạm Ngọc Viễn (2013), Nguồn tài chính
cho hoạt động bóng đá chuyên nghiệp ở Việt
Nam, Hà Nội.
4. Phạm Ngọc Viễn (2014), Hoạt động kinh tế
trong thể thao chuyên nghiệp (nhà nghề), Hà Nội.
5. Giải pháp phát triển kinh tế thể thao ở Việt
Nam trong quá trình hội nhập quốc tế (2014),
Đề tài khoa học cấp nhà nước mã số
KX.01.05/11-15. Bắc Ninh.
Kinh doanh, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ thể thao mang lại
nguồn thu rất lớn, nhiều thương hiệu trang phục thể thao đã
được phổ biến ngay trong cuộc sống hàng ngày của người dân

File đính kèm:

  • pdfdoi_moi_tu_duy_nhan_thuc_xa_hoi_ve_kinh_te_the_thao_dinh_vi.pdf
Tài liệu liên quan