Di tích Óc Eo và việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa
Tóm tắt
Những kết quả nghiên cứu về nền văn hóa Óc Eo đã giúp chúng ta hiểu biết sâu hơn về lịch sử, văn
hóa dân tộc. Có thể nói, việc khám phá các di tích, di vật của nền văn hóa Óc Eo được xem là một trong
những thành tựu lớn nhất của khảo cổ học Việt Nam trong hơn 70 năm qua. Tuy nhiên, trong thời kỳ
hiện nay, các khu di tích văn hóa Óc Eo đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại, thậm chí mai một. Việc
bảo tồn các khu di tích đã trở nên cấp bách, đòi hỏi các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương,
đặc biệt là ngành văn hóa và các cơ quan hữu trách một sự quan tâm sâu sắc
đều coi những di tích này là tiêu biểu cho đỉnh cao kinh tế, kỹ thuật của sự phát triển, phồn vinh ở vùng đồng bằng sông Cửu Long thời đó. Sự phát triển của văn hóa Óc Eo (An Giang) có thể được chia thành hai giai đoạn quan trọng như sau: Giai đoạn sớm (thế kỷ I - IV): Đây là giai đoạn văn hóa Óc Eo định hình và phát triển. Cư dân cổ trên khu vực Óc Eo đã dần chiếm lĩnh toàn bộ vùng đồng bằng thấp Tứ giác Long Xuyên. Gắn liền với việc chuyển từ tiền sử muộn sang sơ sử và bắt đầu hình thành nhà nước phong kiến sơ khai cùng với việc mở rộng địa bàn cư trú thì các công trình tôn giáo cũng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều hiện vật đặc trưng của văn hóa Óc Eo như các kiểu dáng của đồ gốm, đế đất nung, những trang sức bằng đồng, chì, thiếc, con dấu, bùa đeo đều được phát hiện trong giai đoạn này. Giai đoạn phát triển (thế kỷ IV - VI, VII): Vào thời kỳ này, cư dân Óc Eo đã hoàn toàn làm chủ vùng đồng bằng miền Tây sông Hậu, vùng U Minh và vùng trũng thấp Đồng Tháp Mười. Đây cũng là thời kỳ mà các kiến trúc tôn giáo được phát hiện nhiều nhất và chủ yếu được xây bằng gạch hoặc bằng gạch đá hỗn hợp. Trong đó, khu vực Óc Eo vẫn là nơi tập trung nhiều kiến trúc nhất, quy mô nhất chứng tỏ nó giữ vị trí trung tâm quan trọng ở đồng bằng Nam Bộ. Có thể nói, văn hóa Óc Eo thời đó có vai trò quan trọng trong lịch sử. Nó hàm chứa trong mình những sáng tạo diệu kỳ của những lớp người đã khuất. Nó hội tụ mọi giá trị lớn về khoa học kỹ thuật, văn hóa – xã hội của người An Giang thuở trước nói riêng và người dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung. BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA 2. Những hạn chế, bất cập trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa Óc Eo Hiện nay, hiện trường các khu di tích trong quần thể văn hóa Óc Eo đã có nhiều biến đổi do tác động của thiên nhiên và đặc biệt là của con người. Trong đó, các “gò nổi” và “đống đá” bị tổn hại nhiều và đã lộ ra nhiều vết tích văn hóa. Có những gò hầu như đã bị mất hết dấu vết như gò Cây Dúi, gò Tre, gò Điển Điển; có gò đã mất phần nửa hoặc chỉ còn phần dưới chân như gò Cây Trôm (bị đào lấy đi một nửa phần phía Bắc, làm lộ ra kiến trúc gạch rộng lớn và đã bị khai quật). Gò Lớn trong hệ thống gò của Giồng Cát hầu như đã bị bóc mất phần trên; tường gạch của các kiến trúc hầu như không còn; nay chỉ thấy những phiến đá của chân bệ thờ và những khối đá hoa cương nằm la liệt, vốn là vật liệu của móng kiến trúc nói trên. Gò Mồ Côi cũng bị đào phá làm lộ ra nhiều tường gạch xây thành từng ô chữ nhật. Các gò lớn khác và nhiều gò nhỏ cũng đều có hiện tượng đào tìm vàng, tạo thành những hố nhỏ hoặc bị sạt lở, bị san lấp trồng cây, làm lộ ra những tường gạch (gò Cây Thị, gò Kamnap), những đá hoa cương, gạch vỡ, cát trắng (gò Ông Phi, gò Bà Chruôn, gò ông Môn) (6, tr.21). Từ đó đến nay, không có một cuộc điền dã nào được tiến hành tại đây. Di tích tiếp tục bị hủy hoại bởi những người đào tìm vàng. Một thực trạng khác là khá nhiều di tích có nguy cơ bị phá hủy hoàn toàn, việc nghiên cứu tổng hợp, đi vào chiều sâu của nền văn hóa cổ này còn quá ít. Trong khi đó, giới khoa học trong và ngoài nước đang mong đón nhận những phát hiện mới tại các di tích. Công việc dò tìm và khai quật di sản văn hóa Óc Eo hiện nay được tiến hành một cách chậm chạp so với tốc độ phát triển của quá trình đô thị hóa. Điều đáng nói là, trên thực tế ai cũng có thể dễ dàng hình dung được rằng, chỉ vài chục năm nữa thôi, phần lớn các di chỉ về nền văn hóa quan trọng độc đáo này sẽ phải vĩnh viễn nằm yên trong lòng đất, nơi mà đô thị và các khu công nghiệp mới sẽ mọc lên. Viễn cảnh ấy nhất định sẽ xảy ra, chừng đó, mọi quyết định khai quật để biết thêm về nền văn hóa cổ hẳn sẽ không còn là chuyện đơn giản. 3. Một số kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Óc Eo Trước hết, để đảm bảo tính hiệu quả trong công tác bảo tồn, Nhà nước cần thực hiện ngay một chương trình với mục tiêu và tiến độ cụ thể cho việc tôn tạo có trọng điểm và phát huy có hiệu quả giá trị di sản văn hóa Óc Eo nhằm phục vụ đời sống văn hóa của người dân trong vùng. Đây là chương trình có nội dung thật đa dạng và nhiều yêu cầu khác nhau nên đòi hỏi sự tham gia của nhiều nhà khoa học và các nhà nghiên cứu ở nhiều ngành thuộc khoa học xã hội, văn hóa và nghệ thuật. Do đó, để thu hút sự tham gia của các nhà khoa học vào việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Óc Eo, Chính phủ cần tăng cường đầu tư nguồn vốn và nguồn nhân lực bảo tồn cho địa phương. Công tác bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích là một hoạt động mang tính đặc thù nên Nhà nước cần có chính sách riêng biệt. Thứ hai, Ban Quản lý di tích văn hóa Óc Eo nhanh chóng lập kế hoạch điều tra, kiểm kê toàn bộ khu di tích; bên cạnh đó, cần tổ chức nghiên cứu môi trường sinh thái, sự biến đổi của khí hậu, lịch con nước sông Hậu để có kế hoạch lâu dài tránh cho các di tích khỏi bị ngập nước; đồng thời, thực hiện tốt công tác tuyên truyền cho người dân ở trong và quanh khu di tích về tầm vóc, giá trị lịch sử - văn hóa của di tích Óc Eo, hướng dẫn họ sử dụng đất đai một cách hợp lý trong xây dựng các công trình và trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiến tới xóa bỏ mọi hành vi xâm phạm di tích. Thứ ba, Ban Quản lý di tích văn hóa Óc Eo cần làm tốt công tác giữ gìn và bảo quản hiện vật. Chúng ta biết rằng, việc tiếp nhận các hiện vật là quan trọng, nhưng việc tạo điều kiện bảo đảm cho các hiện vật được tồn tại lâu dài còn quan trọng hơn. Do đó, tại nhà trưng bày phải có kho bảo quản đủ tiêu chuẩn để tập trung được tất cả các hiện vật văn hóa Óc Eo mà trước đây còn để rải rác ở các nơi trong khu di tích. Mặt khác, để đảm bảo sự an toàn cho các hiện vật có giá trị kinh tế cao như các hiện vật bằng kim loại quý và đá quý, nên đưa chúng vào bảo quản trong tủ bảo hiểm. Những hiện vật đưa ra trưng bày cũng phải được đặt trong tủ kính có khóa chắc chắn. Những hiện vật BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA bị hư hỏng nhẹ phải kịp thời tu sửa Riêng đối với những hiện vật có nguy cơ bị hủy hoại như tượng gỗ, cột gỗ, Ban Quản lý nên mời các chuyên gia về kỹ thuật bảo quản đến gia cố nhằm tăng tuổi thọ cho chúng. Thứ tư, Ban Quản lý di tích văn hóa Óc Eo cần tăng cường công tác bảo vệ các di tích, nhất là các di tích tiêu biểu của nền văn hóa; cùng với việc bảo vệ là áp dụng các biện pháp kỹ thuật để tạo nên những địa điểm bảo tàng lộ thiên phục vụ khách tham quan, du lịch. Khi sắp xếp các hiện vật trong nhà trưng bày, Ban Quản lý cần xây dựng mô hình toàn bộ khu di tích để giới thiệu cho khách tham quan trước khi đưa họ đến thực địa. Để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo tồn, tỉnh An Giang cần tổ chức đào tạo, cung cấp cho Ban Quản lý những cán bộ chuyên trách có trình độ chuyên môn sâu để họ vừa sưu tầm, nghiên cứu, vừa giới thiệu, hướng dẫn cho khách tham quan, đồng thời, cũng để họ Như vậy, những kết quả nghiên cứu về nền văn hóa Óc Eo đã giúp chúng ta hiểu biết sâu hơn về lịch sử, văn hóa dân tộc. Có thể nói, việc khám phá các di tích, di vật của nền văn hóa Óc Eo được xem là một trong những thành tựu lớn nhất của khảo cổ học Việt Nam trong hơn 70 năm qua. Tuy còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và thảo luận, nhưng với những gì khoa học đưa lại, chúng ta có thể khẳng định rằng: thời cổ đại, sau các nền văn hóa tiền sử, văn hóa Óc Eo là một trong những trung tâm văn hóa tiêu biểu nhất của đất nước. Tuy nhiên, trong thời kỳ hiện nay, các khu di tích văn hóa Óc Eo đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại, thậm chí mai một. Việc bảo tồn các khu di tích đã trở nên cấp bách, đòi hỏi các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là ngành văn hóa và các cơ quan hữu trách một sự quan tâm sâu sắc. P.N.H (Nghiêncứuviên,HọcviệnChínhtrịkhuvựcIV) làm tốt công tác tuyên truyền cho mỗi người dân địa phương hiểu được giá trị di sản văn hóa Óc Eo, qua đó nâng cao được sự kiểm soát việc bảo tồn di sản này bằng dư luận. Thứ năm, Ban Quản lý di tích văn hóa Óc Eo cần thực hiện việc biên tập, giới thiệu những dạng ấn phẩm khác nhau về các phát hiện, các kết quả nghiên cứu cho người dân trong và ngoài nước; từng bước thực hiện việc trưng bày dưới dạng chuyên đề các di tích, di vật của nền văn hóa này để tiến tới xây dựng nội dung chính thức cho nhà trưng bày. Để phát huy hơn nữa vai trò của mình trong công tác bảo tồn di tích, Ban Quản lý nên tăng cường học hỏi kinh nghiệm của các địa phương khác trong công tác bảo tồn, lưu giữ hiện vật, để từ đó tìm ra giải pháp bảo tồn hiệu quả nhất cho khu di tích của mình; đặc biệt, cần sớm phối hợp với các cơ quan chức năng, lập hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ để đề nghị UNESCO công nhận di tích văn hóa Óc Eo là di sản văn hóa thế giới. Thứ sáu, Ủy ban Nhân dân các tỉnh có chung di tích lịch sử văn hóa Óc Eo cần có kế hoạch phối hợp nhằm tiến tới xây dựng một quy hoạch chung bảo vệ di tích. Tài liệu tham khảo 1. Nhiều tác giả (1984), Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ở đồng bằng sông Cửu Long, Long Xuyên. 2. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2008), Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội. 3. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2014), Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 4. Nguyễn Hữu Hiệp (2011), Tìm hiểu một số địa danh cổ ở An Giang qua truyền thuyết, Nxb. Lao động, Hà Nội. 5. Nguyễn Văn Chuẩn, Trịnh Tất Đạt (2010), Từ điển bách khoa đất nước con người Việt Nam, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội. 6. Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải (1995), Văn hóa Óc Eo những khám phá mới, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 7. L. Malleret (1963), L’archéologie du delta du Mékong, Tome 3, Paris. Ngày nhận bài: 30 - 11 - 2016 Ngày phản biện, đánh giá: 4 - 3 - 2017 Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2017 BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA
File đính kèm:
- di_tich_oc_eo_va_viec_bao_ton_phat_huy_cac_gia_tri_van_hoa.pdf