Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Triết học Mác - Lênin
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2.500 năm.
Ngay từ thời cổ đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diển ra cuộc đấu tranh không khoan
nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời, cũng giống những phạm
trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát triển gắn liền với thực tiễn và nhận thức của
con người.
Theo Lênin phạm trù vật chất là một phạm trù rộng đến cùng cực, rộng nhất, mà cho
đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt quá được. Khi định nghĩa vật chất không thể
quy nó về vật thể hoặc một thuộc tính cụ thể nào đó, cũng không thể quy về phạm trù rộng
hơn vì đến nay chưa có phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất. Do vậy, chỉ có thể định
nghĩa vật chất trong quan hệ với ý thức, phạm trù đối lập với nó và trong quan hệ ấy, vật
chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Bằng phương pháp như vậy Lênin đã đưa ra định
nghĩa kinh điển về vật chất:
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
ột phương diện khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người. - Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các giác độ sau đây: Một là, nó.xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì không phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người. Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn tại của nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự thay đổi tương ứng và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Như vậy con người không phải là một động vật thuần túy mà là một “ động vật xã hội”, một thực thể sinh vật (tự nhiên) – xã hội. Thực thể tự nhiên và thực thể xã hội ở con người không tách khỏi nhau, trong đó thực thể tự nhiên là tiền đề mà trên cái tiền đề đó thực thể xã hội tôn tại và phát triển. b) Con người là chủ thể của lịch sử Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất của nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nếu lý 23/26 giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội của nó thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn. Hoạt động của con người làm ra lịch sử nên để có lịch sử trước hết phải có con người. Tiền đề đầu tiên của lịch sử là sự tồn tại của những con người sống, vì vậy, hành động lịch sử đầu tiên, khách quan, tất yếu là hành động lao động sản xuất để con người tách khỏi động vật. Con người làm ra lịch sử nhưng không phải là lảm theo ý muốn tùy tiện của mình, mà là trong những điều kiện có sẵn, do quá khứ để lại. Với những điều kiện ấy, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục các hoạt động cũ của thế hệ trước trong hoàn cảnh mới, mặt khác tiếp tục các hoạt động mới của mình để biến đổi hoàn cảnh cũ. Như vậy, con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử. c) Bản chất của con người Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, “bản tính người” của con người, nhưng về cơ bản những quan niệm đó thường là những quan niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí. Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã phê phán vắn tắt những quan niệm đó và xác lập quan niệm mới của mình: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” Quan niệm duy vật biện chứng về con người trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện bản tính xã hội của nó. Hơn nữa, chính bản tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất của con người với tư cách “người”, phân biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Vậy, bản chất của con người, xét trên phương diện tính hiện thực của nó, chính là “tổng hòa của các quan hệ xã hội”, bởi xã hội chính là xã hội của con người, được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, Quan điểm của C. Mác cho thấy: - Bản chất con người không phải là cái trừu tượng, cố hữu. Bản chất con người hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực. Đấy là những con người cụ thể, sống trong những hoàn cảnh cụ thể mà ở đó bản chất con người được bộc lộ ở những mức độ cụ thể. - Tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành nên bản chất của con người. Các quan hệ này có vị trí, vai trò khác nhau nhưng chúng xâm nhập vào nhau, tràn lan vào nhau, phát huy hoặc kìm hãm tác dụng của nhau. - Khi các quan hệ xã hội (nhất là quan hệ kinh tế) thay đổi thì sớm hay muộn bản chất của con người cũng có sự thay đổi. Như vậy, bản chất của con người không phải được sinh ra mà được sinh thành. Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận quan trọng sau đây: Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết định 24/26 phải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế - xã hội của nó. Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực sáng tạo lịch sử của con người. Vì vậy phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - xã hội. Trên ý nghĩa phương pháp luận đó có thể thấy một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - xã hội áp bức và bóc lột, ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của của con người. 2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân a) Khái niệm quần chúng nhân dân Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử nhưng không phải là theo phương thức hành vi đơn lẻ, rời rạc, cô độc của mỗi con người mà là theo phương thức liên kết những con người thành sức mạnh cộng đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của những cá nhân hay các tổ chức chính trị, xã hội nhất định nhằm giải quyết các nhiệm vụ lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội – cộng đồng đó chính là quần chúng nhân dân. Những lực lượng cơ bản tạo thành cộng đồng quần chúng nhân dân bao gồm: Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần; đó là hạt nhân cơ bản trong cộng đồng quần chúng nhân dân. Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với cộng đồng nhân dân. Thứ ba, những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. b) Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. Về căn bản, tất cả các nhà tư tưởng trong lịch sử trước Mác đều không nhận thức đúng vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có nguyên nhân từ quan điểm duy tâm, tôn giáo và phương pháp siêu hình trong phân tích các vấn đề xã hội. Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Do đó, lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần chúng nhân dân được phân tích từ ba giác độ sau đây: Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, của xã hội – đây là nhu cầu quan trọng bậc nhất của mọi xã hội ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử. Thứ hai, cùng với quá trình sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng nhân dân đồng thời cũng là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội. Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc cách 25/26 mạng và các cuộc cải cách trong lịch sử. Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có thể tách rời vai trò cụ thể của mỗi cá nhân mà đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vị trí thủ lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm vĩ nhân của cộng đồng nhân dân. Theo V.I.Lênin: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” . Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của các cá nhân đối với tiến trình lịch sử đã cung cấp một phương pháp luận khoa học quan trọng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn: Thứ nhất, việc lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân đã xóa bỏ được sai lầm của chủ nghĩa duy tâm đã từng thống trị lâu dài trong lịch sử nhận thức về động lực và lực lượng sáng tạo ra lịch sử xã hội loài người. Đồng thời, đem lại một phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu và nhận định lịch sử cũng như việc nghiên cứu và đánh giá vai trò của mỗi cá nhân, thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ trong cộng đồng xã hội. Thứ hai, lý luận về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân đã cung cấp một phương pháp luận khoa học để các đảng cộng sản phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là sự liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, trên cơ sở đó tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp nhằm tạo ra động lực to lớn trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đi tới thắng lợi cuối cùng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình triết học Mác – Lênin (của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo) Nxb CTQG, Hà Nội, 2006. 2. Câu hỏi và bài tập triết học (Chủ nghĩa duy vật biện chứng), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội , 2005. 3. Đề cương Hướng dẫn ôn tập môn Triết học của Bộ môn Lý luận chính trị Trường đại học Tôn Đức Thắng, năm 2009. TP. HCM, ngày 30 tháng 11 năm 2009 Hiệu trưởng duyệt (đã ký) NGƯT,.TS. LÊ VINH DANH Trưởng khoa/Trưởng bộ môn Lý luận chính trị (đã ký) TS. THÁI HỮU TUẤN 26/26
File đính kèm:
- de_cuong_on_thi_tot_nghiep_mon_triet_hoc_mac_lenin.pdf