Đánh giá ổn định mái dốc nền đường vùng có hoạt động sụt lở theo lý thuyết độ tin cậy
Assessing the slope stability is extremely complicated and risky. There are
many unexpected and unforeseen incidents occurring during the project’s
operation and usage phase. This may be caused by several reasons
including inappropriate computational models, inadequate collected data
and the unsustainability of soil physical properties. Among these causes,
the unsustainability of soil physical properties plays a significant role
because it determines the sub-grade stability. The role of this factor is
showed clearly in the case of projects carried in adverse conditions. This
paper presents the method used to assess the roadbed slopes stability in
the landslide areas in which physical properties of soil has changed
significantly, by adopting the reliability theory though using Monte Carlo
simulation model. The input parameters of this method are random
variables following a standard normal distribution. This research will
provide the objective point of view regarding assessment of the roadbed
slope stability to all practitioners
φ và C) là các chuỗi số liệu ngẫu nhiên (thay đổi theo thời gian do sự tác động từ môi trường). Tuy nhiên, do chưa có điều kiện để thí nghiệm sự thay đổi tính chất cơ lý của các lớp đất theo thời gian và không gian nên tác giả sử dụng kết quả nghiên cứu các lớp đất cơ bản (đất sét) từ nghiên cứu của Hoàng Hồng Giang, 2009. Theo đó, độ dao động (δ) quanh giá trị trung bình (μ) của dung trọng riêng, lực dích, góc nội ma sát các lớp đất giả thiết tương ứng là 5%, 5% và 20%. Kết quả như Bảng 2 sau: Bảng 2 : Độ dao động của các chỉ tiêu cơ lý ( kN/ m3) C (kN/m2) φ ( độ) μ δ (5%) μ δ (5%) μ δ (20%) Lớp 1 16,5 0,825 21 1,05 15,4 3,08 Lớp 2 16,7 0,835 23 1,15 18,7 3,74 Lớp 3 17,2 0,86 34 1,7 22,0 4,4 Lớp 4 18,4 0,92 12 0,6 25,0 5,0 Hàm tin cậy Z được xác định theo hệ số an toàn bằng biểu thức: Z = SF (hệ số an toàn) (2.2) Do đó, xác suất phá hoại được định nghĩa là xác suất để hệ số an toàn (SF) nhỏ hơn 1.0: Pfailure= P (Z<1) Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 49, Phần A (2017): 34-40 38 Chỉ số độ tin cậy (β) mô tả độ ổn định của mái dốc bằng số lần lệch chuẩn (σ) khỏi hệ số an toàn trung bình (μ) được xác định như sau: ߚ ൌ ሺఓିଵሻఙ (2.3) Phân tích xác suất ổn định mái dốc sử dụng phương pháp Monte Carlo, số lượng phép thử phụ thuộc vào mức độ tin cậy yêu cầu của lời giải, cũng như số lượng biến đầu vào được xem xét. Theo lý thuyết thống kê, ta có phương trình sau: ܰ ൌ ቂ ఙ మ ସ.ሺଵିఉሻమቃ (2.4) Trong đó: Nmc: số lần thử Monte Carlo; β: mức độ tin cậy mong muốn (0% đến 100%) biểu diễn dưới dạng số thập phân; σ: độ lệch chuẩn tương ứng với mức độ tin cậy; và m: số lượng biến. Số lần thử Monte Carlo tăng lên về mặt hình học với mức độ tin cậy và số lượng biến. Theo tác giả Hoàng Hồng Giang, với 3 thông số đầu vào là lực dính, góc nội ma sát và dung trọng riêng thì số lần thử Monte Carlo tối ưu là 15.000 lần; với 4 thông số đầu vào là lực dính, góc nội ma sát, dung trọng riêng và mực nước ngầm thì số lần thử Monte Carlo tối ưu là 20.000 lần. Điều này có nghĩa là để đảm bảo độ chính xác, càng nhiều thông số đầu vào thì số lần thử Monte Carlo càng nhiều. Trong giới hạn nghiên cứu này, tác giả chỉ nghiên cứu phương pháp phân tích xác suất với 3 thông số đầu vào (γ, φ, C), vì vậy tác giả lựa chọn số lần thử Monte Carlo là 15.000 lần cho mô phỏng ngẫu nhiên các thông số này. Kết quả phân tích ổn định mái dốc theo mô phỏng Monte Carlo với 3 thông số đầu vào biến đổi (γ, φ, C) và số lần lặp là 15.000 lần như Bảng 3 sau: Bảng 3: Kết quả phân tích ổn định mái dốc Trị trung bình hệ số ổn định 1.153 Chỉ số độ tin cậy 1.299 Độ lệch chuẩn 0.118 Min SF 0.604 Max SF 1.756 Xác suất phá hoại 9.047% Ngoài ra, kết quả phân tích ổn định còn được biểu diễn dưới dạng hàm phân phối xác suất và mật độ xác suất của hệ số ổn định như Hình 8 và Hình 9. Hình 8: Kết quả hàm mật độ xác suất Hình 9: Kết quả hàm phân phối xác suất Kết quả trên cho thấy, mặc dù hệ số ổn định trung bình (1.153) theo phương pháp Monte Carlo lớn hơn hệ số ổn định theo phương pháp tất định (1.141), tuy nhiên hệ số ổn định nhỏ nhất khi phân tích ổn định theo phương pháp Monte Carlo (0.604) lại nhỏ hơn rất nhiều hệ số ổn định khi phân tích ổn định theo phương pháp tất định. Điều đó chỉ ra rằng hệ số ổn định theo phương pháp tất định chưa hẳn đã phản ánh được trường hợp bất lợi nhất trong phân tích ổn định mái dốc. Việc tuyến đường bị sạt trượt vào mùa mưa năm 2013 (theo Hình 1) đã minh chứng cho việc hệ số an toàn khi thiết kế theo phương pháp tất định là không chính xác. Điều đó chứng tỏ hệ số an toàn luôn dao động (giữa min FS và max FS) theo mô hình xác suất là phản ánh khách quan bản chất của vấn đề ổn định mái dốc. Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 49, Phần A (2017): 34-40 39 Mặt khác, khi phân tích theo phương pháp tất định thì chúng ta không thể đánh giá được xác suất phá hoại là bao nhiêu và độ tin cậy của các kết quả tính toán. Nhưng ngược lại, theo phương pháp Monte Carlo thì cho chúng ta được điều đó. Trong trường hợp này, xác suất phá hoại là 9.047% tương ứng với chỉ số độ tin cậy là 1.299. Xác suất phá hoại này là xác suất để hệ số ổn định nằm trong khoảng 0.604<FS<1, còn theo tiêu chuẩn Việt Nam hiện nay thì hệ số ổn định an toàn cho mái dốc lớn hơn rất nhiều (tiêu chuẩn 22TCN 171-87 quy định FS=Ktc= 1.25). Vì vậy, nếu xét xác suất phá hoại khi hệ số an toàn FS<1.25 thì sẽ cao hơn rất nhiều con số 9.047% (khoảng 75% theo Hình 9). Rõ ràng đây là sự ưu việt của phương pháp tiếp cận mà tác giả nghiên cứu. 3.3 Phân tích độ nhạy của các tính chất đối với hệ số ổn định của công trình Mục đích của việc phân tích độ nhạy là để xem sự biến động của các thông số đầu vào và đánh giá ảnh hưởng của chúng đến kết quả đầu ra. Điều quan trọng đầu tiên khi thiết lập mối quan hệ giữa các thông số đầu vào của mô hình phân tích độ nhạy là phải hiểu rõ tính chất của từng thông số. Thứ hai là các dữ liệu của thông số đầu vào (giá trị trung bình và độ dao động) phải được xác định. Điều này đóng vai trò quyết định trong phân tích độ nhạy. Việc phân tích độ nhạy mang lại kết quả tổng hợp của tất cả các thông số. Từ đó chúng ta sẽ có cơ sở để đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng thông số đầu vào đối với kết quả. Tiến hành phân tích độ nhạy các thông số đầu vào cho cả 4 lớp đất, tác giả nhận thấy rằng chỉ có 2 lớp đất trên cùng (lớp 1 và lớp 2) có ảnh hưởng đến kết quả ổn định còn 2 lớp đất bên dưới (lớp 3 và lớp 4) không có ảnh hưởng. Kết quả được cụ thể được thể hiện như ở Hình 10 và Hình 11. Hình 10: Kết quả phân tích độ nhạy các thông số đầu vào của lớp đất 1 đối với hệ số ổn định Hình 11: Kết quả phân tích độ nhạy các thông số đầu vào của lớp đất 2 đối với hệ số ổn định Tác giả có một số nhận xét sau: Ảnh hưởng của các thông số đầu vào đối với hệ số ổn định phụ thuộc vào tính chất thông số đó. Cụ thể, đối với trường hợp tính toán trên thì dung trọng tăng dẫn đến hệ số ổn định giảm (tỷ lệ nghịch). Trong khi đó, khi lực dính hay góc nội ma sát tăng thì hệ số ổn định cũng tăng theo (tỷ lệ thuận). Đối với lớp đất thứ 2 thì độ nhạy của góc nội ma sát đối với hệ số ổn định là lớn nhất, tiếp theo là lực dính và cuối cùng là dung trọng. Tuy nhiên, đối với lớp đất 1 thì độ nhạy của dung trọng riêng đối với hệ số ổn định là lớn nhất, tiếp theo là góc nội ma sát và cuối cùng là lực dính. Vì vậy, không thể nói rằng tính chất của thông số quyết định toàn bộ độ nhạy của nó đối với hệ số ổn định. Ngoài ra, độ nhạy của các thông số đối với hệ số ổn định không chỉ phụ thuộc vào tính chất của thông số (các loại đất khác nhau) mà còn phụ thuộc vào vị trí cung trượt. 4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Đất là một loại vật liệu phức tạp, các chỉ tiêu cơ lý không bền vững khi chịu tác động của môi trường đặc biệt là hiện tượng mưa, do đó việc phân tích ổn định mái dốc theo phương pháp tất định không phản ảnh đúng thực tế. Vì vậy, phân tích ổn định theo mô hình xác suất sẽ cho chúng ta cách tiếp cận khách quan và phản ánh chính xác hơn. Trong phân tích ổn định mái dốc theo phương pháp xác suất, chúng ta có thể đánh giá được độ nhạy của các thông số đầu vào đối với hệ số ổn định. Như vậy, cần có những thí nghiệm cụ thể để xác định chuỗi số liệu mô tả sự thay đổi các tính chất cơ lý (theo cả không gian và thời gian). Điều này sẽ giúp cho việc phân tích ổn định theo mô hình xác suất và đánh giá độ nhạy các thông số khách quan hơn và kết quả đạt độ tin cậy hơn. Phân tích ổn định mái dốc theo lý thuyết độ tin cậy dựa vào mô phỏng Monte Carlo cho chúng ta Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 49, Phần A (2017): 34-40 40 thấy được xác suất phá hoại, hệ số ổn định thấp nhất và chỉ số độ tin cậy của hệ số ổn định. Điều này sẽ giúp hạn chế phần nào sự sai lệch ngẫu nhiên trong quá trình tính toán, đồng thời dự báo được mức độ biến động hệ số ổn định trong điều kiện thực tế. Tùy theo tính chất công trình, yêu cầu thiết kế cụ thể (cấp công trình) mà chúng ta có thể lựa chọn hệ số ổn định với xác suất phá hoại khác nhau để làm cơ sở thiết kế cũng như đánh giá công trình. TÀI LIỆU THAM KHẢO Alonso, 1976. Risk analysis of slopes and its application toslopes in Canadian spensitive clays. Geotechnique, 26, pp.453–472. Bộ GTVT, 1987. 22TCN 171-87: Quy trình khỏa sát địa chất và thiết kế biện pháp ổn định nền đường vùng có hoạt động sụt lở. Christian J.T, 1996. Reliability methods for stability of existing slopes. In Proceedings of Uncertainty 96 Geotechnical SpecialPublication. 58(2), pp.409–419. Cheng and C.K. Lau, 2008. Slope stability analysis and bilization. Taylor & Francis Group, London and New York. Công ty cổ phần tư vấn xây dựng giao thông Kon Tum, 2012. Hồ sơ bản vẽ biện pháp thi công Quốc Lộ 24. Mai Văn Công, 2011. Ứng dụng lý thuyết độ tin cậy và phương pháp thiết kế ngẫu nhiên trong đánh giá an toàn ổn định đê kè bờ biển. Tạp chí KHCN Đại học Thủy lợi, số 24-2011, trang 01-11. GEO - SLOPE International Ltd, 2008. Stability Modeling with SLOPE/W 2007. Alberta, Canada. Hoàng Hồng Giang, 2009. Giải bài toán ổn định trượt cung tròn nền đất đắp bằng phương pháp xác suất. Tạp chí KHCN Hàng hải, số 17-2009, trang 55-61. Harr, M.E, 1977. Mechanics of particulate media — a probabilistic approach. McGraw-Hill, New York, 543 pp. Nguyen and Chowdhury, 1984. Probabilistic study of spil pile stabilityin trip coal mines. International Jour of Rock Mechanics, 21, pp.303-312. Tang, Yucemen and Ang, 1976. Probabilitybased short-term design of slopes. Canadian Geotechnical Journal, 13, pp.201–215. Whitman V.W, 1984. Evaluating calculated risk in geotechnical engineering. Journal of Geotechnical Engineering, ASCE, 110, pp.145–188.
File đính kèm:
- danh_gia_on_dinh_mai_doc_nen_duong_vung_co_hoat_dong_sut_lo.pdf