Đánh giá kỹ năng nghề nghiệp của cựu sinh viên ngành kế toán tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội
TÓM TẮT
Nghiên cứu này phân tích đánh giá của người sử dụng lao động về kỹ năng
nghề nghiệp của nhân viên kế toán là cựu sinh viên học ngành Kế toán tại các
trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội. Kết quả khảo sát cho thấy, đánh
giá của người sử dụng lao động về việc trang bị kỹ năng nghề nghiệp cho nhân
lực kế toán được đào tạo tại các trường đại học này chưa cao. Nguyên nhân chính
được chỉ ra là do chương trình đào tạo hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu thực
tiễn của doanh nghiệp. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số khuyến
nghị nhằm phát triển kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên kế toán trước khi ra
trường, từ đó dần thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu của xã hội.
đánh giá ở mức Hài lòng (5,8%) có thể do sinh viên đã được trang bị kỹ năng này ngay khi còn học trong trường và mức độ sử dụng của họ tương đối thành thạo. Để khắc phục tình trạng nhân viên kế toán là sinh viên mới ra trường không có kỹ năng sử dụng phần mềm chuyên dùng, các doanh nghiệp thường lựa chọn giải pháp tuyển dụng dựa trên những kỹ năng cơ bản và chấp nhận thêm thời gian, chi phí để đào tạo bổ sung. Đối với Kỹ năng ngoại ngữ, mức độ hài lòng của người sử dụng lao động cũng không cao, chỉ đạt 2,3%. Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng nhanh, mạnh, kỹ năng ngoại ngữ trở thành yêu cầu tất yếu đối với xã hội nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, các cơ sở đào tạo đã nắm bắt xu thế, đẩy mạnh đào tạo kỹ năng này, một số trường còn đưa vào yêu cầu về chuẩn đầu ra đối với sinh viên, tuy nhiên, cơ hội để sinh viên thực hành kỹ năng này còn hạn chế cho nên khi đi làm chưa được đánh giá cao. Ngoài ra, một số doanh nghiệp trong nước chưa có nhu cầu cao đối với kỹ năng sử dụng ngoại ngữ của người lao động, vì vậy mức độ hài lòng về kỹ năng này không cao. 5. KHUYẾN NGHỊ Kết quả nghiên cứu trên đã chỉ ra thực trạng, những bất cập còn tồn tại trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực lĩnh vực Kế toán của các trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội, đồng thời cho thấy yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường lao động đối với nghề kế toán. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị đối với các trường đại học nhằm nâng cao kỹ năng nghề nghiệp kế toán cho sinh viên trong quá trình đào tạo như sau: Một là, đổi mới chương trình đào tạo. (i) Giảm bớt tính hàn lâm, lý thuyết thuần túy, tăng cường thực hành cho sinh viên. (ii) Cần có sự tham chiếu, so sánh với chương trình đào tạo kế toán của các trường đại học và các tổ chức nghề nghiệp uy tín trên thế giới; cơ sở đào tạo có thể kết hợp với các tổ chức nghề nghiệp đưa một số nội dung chương trình đào tạo của họ vào giảng dạy chính khóa nhằm gia tăng tính thực tiễn hoặc tổ chức giao lưu, trao đổi, diễn thuyết với các tổ chức, doanh nghiệp để sinh viên có cơ hội tiếp cận, tìm hiểu thực tiễn. (iii) Xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra CDIO. Để làm được điều này trước hết cần xác định được nhu cầu đào tạo của xã hội, từ đó cụ thể hóa tiêu chuẩn cho đầu ra, đầu vào, các công đoạn, yếu tố trong quá trình đào tạo; xây dựng trình tự các môn học logic hơn theo CDIO đảm bảo đào tạo cho người học các kiến thức từ cơ bản đến nâng cao, từ biết, hiểu đến thành thạo các kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng nghề nghiệp. (iv) Điều chỉnh nội dung chương trình đào tạo theo hướng giảng dạy IFRS kết hợp với các tình huống cụ thể phù hợp với bối cảnh của Việt Nam để người học vừa được tiếp cận IFRS, vừa am hiểu các quy trình kế toán của Việt Nam, từ đó tăng khả năng ứng dụng kiến thức vào thực tế cho sinh viên, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, sinh viên ra trường làm việc được ngay mà không cần phải đào tạo lại. (v) Bổ sung thêm các nội dung đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm phán, tiếng Anh, tin học văn phòng, đặc biệt là phần mềm ứng dụng đối với ngành Kế toán làm học phần bắt buộc trong chương trình đào tạo chính khóa; xây dựng theo hướng phát triển lý luận chung mang tính bản chất của vấn đề, làm nền tảng cho việc tự nghiên cứu, phát huy tính tự chủ của người học. Hai là, nâng cao chất lượng bài giảng các môn chuyên ngành. Do kiến thức các môn học ngành Kế toán luôn có sự thay đổi trong thực tế về văn bản pháp luật, chuẩn mực, chế độ kế toán vì vậy, bài giảng cần phải được chọn lọc, cập nhật thường xuyên nhằm cung cấp đầy đủ kiến thức cho sinh viên để sau khi ra trường sinh viên có thể làm việc tốt công việc tại doanh nghiệp. Kiến thức các môn chuyên ngành ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình áp dụng trong thực tiễn của sinh viên, do vậy cần sự chính xác tuyệt đối. Để giảm thiểu tình trạng người học tiếp nhận những kiến thức không đáp ứng các tiêu chuẩn và chưa chính xác, cần xây dựng bài giảng một cách thống nhất, được kiểm duyệt trước khi đưa vào giảng dạy. Bên cạnh đó, nội dung các bài giảng cần phong phú về kiến thức, vừa đảm bảo kiến thức lý thuyết cơ bản, có tính nguyên lý, khoa học, vừa có tính thực tiễn. Ba là, nâng cao nhận thức của giảng viên và đổi mới phương pháp giảng dạy. (i) Cần thay đổi tư duy, nhận thức của giảng viên về công việc kế toán, không chỉ đơn thuần cần có kỹ năng ghi chép sổ sách mà còn cần cả những kỹ năng quan sát, phân tích, tổng hợp. Vì vậy, khi giảng dạy các môn chuyên ngành Kế toán không chỉ tập trung vào kiến thức về kỹ năng ghi “Nợ/Có” mà cần trang bị cả những kiến thức để xử lý những thông tin kế toán cần thiết của doanh nghiệp trong thực tiễn. (ii) Hạn chế phương pháp giảng dạy truyền thống nặng về lý thuyết, thiếu tính thực tiễn, giảng dạy thụ động một chiều từ thầy sang trò, thay vào đó, cần tăng cường tính chủ động cho sinh viên bằng cách khuyến khích sinh viên đặt câu hỏi, trình bày quan điểm cá nhân về vấn đề, tổ chức thảo luận nhóm; tăng cường bài tập tình huống, sử dụng phương pháp đóng vai để sinh viên được đặt mình vào những vị trí kế toán cụ thể, xử lý các tình huống; sử dụng các dụng cụ, tài liệu giảng dạy trực quan như các chứng từ, sổ sách của doanh nghiệp... giúp sinh viên tiếp cận với thực tiễn, không bị bỡ ngỡ khi thực tập hoặc đi làm tại doanh nghiệp. (iii) Vận dụng linh hoạt các phương pháp trên trong giảng dạy tùy theo điều kiện, mục tiêu, tính chất của từng học phần, đặc điểm của người học, lớp học theo nguyên tắc “lấy người học làm trung tâm”; giảm tối đa giờ giảng trên lớp để người học có thời gian tự học và tự nghiên cứu. Hướng dẫn sinh viên cách tự học, cách tìm tài liệu, cách nghiên cứu và trao đổi những vấn đề mà mình chưa rõ với thầy cô, bạn bè nhằm khám phá thêm những tri thức mới, những tình huống mới trong doanh nghiệp để thực hành xử lý các tình huống đó. XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 46.2018 16 KINH TẾ Bốn là, tăng cường liên kết giữa nhà trường với doanh nghiệp. Nhằm tăng cường tính thực tiễn trong quá trình đào tạo, thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu của xã hội, các trường đại học cần tăng cường hơn nữa trong quan hệ liên kết với các doanh nghiệp. Sự liên kết này trước hết bồi dưỡng thêm cho giảng viên các tình huống xử lý trong thực tế, đồng thời tạo cơ hội để sinh viên được thực hành, thực tập tại các doanh nghiệp giúp sinh viên tiếp cận với thực tiễn. Tổ chức các buổi giao lưu, tọa đàm chuyên đề về các tình huống phát sinh trong doanh nghiệp với sự tham gia của các chuyên gia kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp, thông qua đó, sinh viên được học hỏi kinh nghiệm, đồng thời được bày tỏ ý kiến, được giải quyết những khúc mắc mà sinh viên tự tìm hiểu trong thực tế. 6. KẾT LUẬN Áp dụng phương pháp điều tra khảo sát, phân tích những đánh giá của người sử dụng lao động đối với kỹ năng nghề nghiệp Kế toán, nghiên cứu này đã chỉ ra thực trạng, những bất cập còn tồn tại trong quá trình đào tạo nhân lực lĩnh vực Kế toán của các trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao những kỹ năng cần thiết cho sinh viên đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay./. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Albrecht, S.W. and R. J. Sack, 2000. Accounting educators: charting the course through a perilous future. Accounting education series, vo.16. [2]. Đào Thị Đài Trang, 2017. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo ngành Kế toán trong các trường đại học ở Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia. Vụ chế độ kế toán tháng 7/2017, 122-136. [3]. Đậu Thị Kim Thoa, 2016. Những thách thức và định hướng đổi mới đào tạo kế toán bậc đại học tại Việt nam theo tiêu chuẩn đào tạo quốc tế. Hội thảo khoa học kỷ niệm 40 năm thành lập khoa Kế toán trường ĐH Kinh tế TP Hồ Chí Minh. 8/2016: 230-134. [4]. Đặng Văn Thanh, 2011. Đổi mới chương trình, nội dung và cách thức đào tạo kế toán. Tạp chí Kế toán, kiểm toán, số 12/2011: 67-72. [5]. Gabbin, A. L., 2002. The crisis in accounting education, Journal of Accountancy, 193(4): 81. [6]. Gifford, R. H., Howe, H. and Mitschow, M., 2011. A model for integrating accounting curricula on academic and professional skills diménions. [7]. Hopper, T., 2013. Making accounting degrees fit for a university. Critical Perspectives on Accounting, 24(2): 127-135. [8].https://www.moet.gov.vn/danh-sach-cac-truong-dh-cd-dao-tao- nganh-ke-toan-kiem-toan-c24a31234.html truy cập ngày 08/12/2017 [9]. https://www.navigosgroup.com/vi/truy cập ngày 02/01/2017 [10]. truy cập ngày 18/12/2017 [11]. Lê Thị Hải Bình và cộng sự, 2017. Đổi mới đào tạo kế toán của các nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Hội thảo khoa học “Đổi mới phương pháp đào tạo, cập nhật giáo trình giảng dạy kế toán phù hợp với yêu cầu cải cách kế toán trong giai đoạn mới”. Tháng 11/2017: 34-39. [12]. Mc Vay, G.J., Murphy, P.R. and Wook Yoon, S., 2008. Good practices in accounting education: classroom configuration and technological tool for enhancing the learning environment. Acounting Education: an international journal, 17(1): 41-63. [13]. Nguyễn Đình Luận, 2015. Sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị. Tạp chí phát triển và hội nhập, số 22/2015: 82-87. [14]. Proser, M. and Trigwell, K., 1999. Understanding learning and teaching: The experience in higher education. McGraw - Hill Education (UK). [15]. Trần Anh Tài và Trần Văn Tùng, 2009. Liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu. NXB Đại học Quốc Gia. [16]. Robert Walters, 2016. Robert Walters Global salary survey 2016: 363-373.
File đính kèm:
- danh_gia_ky_nang_nghe_nghiep_cua_cuu_sinh_vien_nganh_ke_toan.pdf