Dân tộc Mông ở Việt Nam và một số vấn đề về ngôn ngữ

Tóm tắt: Dân tộc Mông là một dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Có nhiều vấn đề về ngôn ngữ của dân tộc

Mông sẽ được giải quyết tốt hơn nếu có những tri thức về văn hóa tộc người. Chúng tôi tập trung nghiên cứu về lịch sử dân tộc gắn với những vấn đề của ngôn ngữ và chữ viết. Qua đó thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa ba thành tố là dân tộc, ngôn ngữ và văn hóa. Kết quả nghiên cứu góp phần hiện thực hóa các chính sách ngôn ngữ đối với các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

pdf8 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 428 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Dân tộc Mông ở Việt Nam và một số vấn đề về ngôn ngữ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
t đặc điểm phản ánh địa bàn cư trú của người Mông ở Việt Nam. Tuy 
khó khăn trong việc đi lại, trong canh tác nhưng người Mông đã có được một vùng “đất mới” 
để tiếp tục bảo tồn và phát huy những đặc điểm văn hóa của dân tộc mình. Và trong hành 
trình đến Việt Nam họ đã thực hiện được cùng một lúc hai việc là tìm sự giải thoát cho sự tồn 
vong của dân tộc (trước sự truy sát của người Hán) và tìm được cho con cháu họ một mảnh 
đất của cuộc sống tự do và hạnh phúc. Trong ý thức của người Mông còn lưu truyền một câu 
chuyện từ xa xưa rằng: Việt Nam là nơi đất đai màu mỡ để làm ăn, nơi có quả bí to như cái 
vạc mà lợn rừng có thể khoét lỗ chui vào đó để đẻ, nó vừa là cái ổ, vừa là thức ăn cho lợn. 
Nơi trồng cây lương thực gốc có củ, thân có bắp, ngọn trổ bông,... chính vì vậy mà người 
Mông luôn tự hào về quê hương thứ hai của mình: 
“Cá bơi ở dưới nước 
Chim bay ở trên trời 
Chúng ta sống ở vùng cao 
Và con chim có tổ 
Người Mông ta cũng có quê 
Quê ta là Mèo Vạc” 
Người Mông ở Việt Nam là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc 
Việt Nam. Trải qua các thời kì lịch sử, người Mông luôn có ý thức trong chiến đấu, bảo vệ và 
xây dựng đất nước. Họ đã tạo nên một “nét riêng” độc đáo về bản sắc các dân tộc ở khu vực 
miền núi cao phía Bắc của nước ta. Nghiên cứu ngôn ngữ của người Mông nếu được bổ trợ 
bởi những kiến thức về tộc người của dân tộc này sẽ là thiết yếu để đi sâu vào tìm hiểu những 
đặc sắc về văn hóa được thể hiện qua ngôn ngữ. 
2.2. Ngôn ngữ của dân tộc Mông ở Việt Nam 
2.2.1. Tiếng Mông ở Việt Nam 
Tiếng Mông là tiếng nói của khoảng hơn một triệu người ở nước ta. Tên dân tộc Mông 
là tên tự gọi của tộc người này (Mông có nghĩa là người). So với một số tộc người thiểu số ở 
khu vực miền núi phía Bắc của nước ta thì tộc người Mông sống tương đối tập trung. Đây 
cũng là một đặc điểm quan trọng giúp cho tiếng Mông có điều kiện thuận lợi để phổ biến và 
phát triển và trên thực tế, tiếng Mông đã trở thành tiếng phổ thông vùng ở khu vực Tây Bắc 
của nước ta. 
Về nguồn gốc, tiếng Mông thuộc ngữ hệ Mông - Dao. Ở Việt Nam, ngữ hệ Mông - Dao 
gồm có các ngôn ngữ: Mông, Dao, Pà Thẻn. Cấu trúc của âm tiết tiếng Mông hoàn toàn mở, 
không có những âm tiết tận cùng bằng phụ âm khép môi như “m”, “p” và phụ âm tắc xát như 
“n”, “c”, “ch”. Trong khi đó những phụ âm này trong tiếng Việt lại xuất hiện rất nhiều. Chẳng 
hạn xét âm tiết “buô” (lợn). Âm tiết này có cấu tạo gồm 3 bộ phận là phụ âm đầu “b”, âm giữa 
“uô”, thanh điệu “thanh ngang” và không có âm cuối. chúng ta mô hình hóa âm tiết “buô” trong 
tiếng Mông bằng sơ đồ: 
13 
thanh ngang 
b uô 
 Tiếng Mông gồm có 58 phụ âm đầu được xếp thứ tự theo Bảng sau: 
b bl c ch cx đ đh đr f fl 
g gr h hl hm hmn hn hnh j k 
kh kr l m mn mf mfl n nđ ng 
nh nj nkh nkr nq nr nt nth nx ny 
nz p ph pl q r s sh t th 
tr ts tx v ư x y z 
Trong Bảng phụ âm đầu kể trên có 22 phụ âm và tổ hợp phụ âm đầu có tiền âm mũi. 
Đây cũng là một điểm khác biệt so với ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số khác ở Việt Nam: 
bl đr gr hl hm hmn hn hnh mn mf 
mfl nđ nj nkh nkr nq nr nt nth nx 
ny nz 
Phụ âm của tiếng Mông được chia thành bốn nhóm vị trí phát âm là: 
Nhóm môi - môi, môi - răng: gồm có 12 phụ âm: 
b bl f fl mf mfl p pl ph m mn v 
Nhóm đầu lưỡi, chân răng gồm có 5 phụ âm: 
x cx nx tx nz 
Nhóm cuống lưỡi - hàm mềm gồm có 11 phụ âm: 
gr k kr nkr j nj s ts w y ny 
Nhóm đầu lưỡi, mặt lưỡi - hàm ếch trên gồm 29 phụ âm: 
c ch đ đh đr g h hl hm hmn 
hn hnh kh l n nd ng nh nq Nr 
nt nth q r sh t th tr z 
Tiếng Mông có 11 nguyên âm là: 
a ă â e ê i o ô ơ u ư 
Tiếng Mông có 24 vần là: 
ai ang ao ăng âu ei eng êi ênh êu 
iê inh oa oai oang ôi ông ơư ui uô 
ưi ưng uê uênh 
14 
Tiếng Mông có 8 thanh điệu. Trong đó dòng hình sin gồm có 5 thanh là: thanh ngang 
(0), thanh rươr (r), thanh vuv (v), thanh xix (x), thanh zuz (z); dòng thăng trầm gồm có 3 thanh 
là thanh kuôk (k), thanh lul (l) và thanh sơưs (s). Như vậy, tiếng Mông có thể xếp vào một 
trong những loại ngôn ngữ đa thanh điệu. Trong bộ chữ Mông Việt Nam hiện đang được lưu 
hành, các thanh điệu của tiếng Mông sử dụng kí hiệu là các con chữ r, v, x, s, z, k, l. Đây cũng 
có thể xem là một khó khăn đối với người học khi đọc các văn bản chữ Mông . Bởi vì nếu như 
không có kiến thức căn bản về bộ chữ này thì sẽ rất dễ nhầm với các phụ âm cuối như trong 
tiếng Việt. 
2.2.2. Chữ viết của dân tộc Mông 
Người Mông rất tự hào về ngôn ngữ của dân tộc mình. Họ cho rằng tiếng Mông là một 
loại ngôn ngữ tinh tế về ngữ âm, phong phú và đa dạng về từ vựng, sâu sắc về ý nghĩa và ngữ 
pháp. Tuy nhiên, từ sâu thẳm trong tâm hồn, người Mông lại chất chứa một “nỗi hận ngàn 
đời” về huyền thoại “bò ăn mất chữ” trong quá khứ của dân tộc mình. Bằng chứng là trong 
dân ca, người Mông đã không ít lần phản ánh nỗi “cay cực” mà họ phải chịu đựng chỉ vì 
không có chữ viết: 
“Vì người Mông ta không biết chữ 
Thua kiện người Hán ta mới đi” 
Trong phong tục của người Mông, họ thường dùng những trang giấy bản để thờ cúng tổ 
tiên, thánh thần, và đốt đi cho người chết. Những tờ giấy bản được đục lỗ theo hình dọc, 
giống như các dòng chữ Nho (theo cách ghi văn tự của người Hán). Và người Mông cho rằng 
đó là chữ của dân tộc mình từ xa xưa đã bị lấy cắp và mất đi vì một lí do nào đó. Giấy bản đục 
lỗ được dùng trong nhiều tập tục sinh hoạt như tang ma, hôn nhân, làm vía, đặt tên. Lời khấn 
thỉnh cầu của thầy cúng cùng người sống được ẩn vào trong giấy bản và được đốt đi để theo 
về với cõi âm [9]. 
Năm 1961, theo Nghị định 206 /CP ngày 27/11/1961 về việc phê chuẩn phương án chữ 
Thái, Tày, Nùng, Mèo và đưa vào sử dụng thống nhất cho cả nước. Mốc thời gian này đánh 
dấu việc người Mông ở Việt Nam chính thức có chữ viết của dân tộc mình. Bộ chữ Mông 
Việt Nam được xây dựng dựa trên hệ thống kí tự Latin theo nguyên lí ghi âm trên cơ sở lấy 
ngành Mông Lềnh (Mông Hoa) ở khu vực Sa Pa - Lào Cai làm cơ sở. Bên cạnh đó, bộ chữ 
Mông này cũng tham khảo thêm một số âm vị của các ngành Mông khác ở miền Bắc nước ta. 
Ở Việt Nam, ngoài bộ chữ Mông được Chính phủ ban hành từ năm 1961. Trong đời 
sống của người dân tộc Mông còn xuất hiện một bộ chữ Mông khác có tên gọi là chữ Mông 
Latin. Chữ Mông Latin được ra đời năm 1953 tại Lào. Năm 1997, để gọi tên bộ chữ này, 
nhiều người dùng thuật ngữ tiếng Anh là Romannized Populer Anphabet (RPA) do đó đã có 
không ít người gọi đây là chữ Mông quốc tế. 
Các phong trào học chữ Mông Việt Nam đã có thời kì phát triển mạnh mẽ. Trong 2 năm 
1962, 1963 nhân dân xã bản Phố, huyện Bắc Hà đã xóa xong nạn mù chữ và được Chính phủ 
tặng huân chương lao động hạng ba vào năm 1964 [10]. Tuy nhiên, các phong trào học chữ 
Mông Việt Nam sau đó lại “lắng xuống”. Đến nay, có một thực trạng là đại bộ phận người dân 
15 
tộc Mông không biết chữ của dân tộc mình (bộ chữ do Chính phủ dày công xây dựng). Nguyên 
nhân của thực trạng này có cả những yếu tố chủ quan và khách quan. Chúng tôi xin được trình 
bày kĩ hơn về vấn đề này trong một nghiên cứu khác. Ở đây, chúng tôi chỉ xin được nêu ra một 
số thực trạng trong việc dạy chữ MôngViệt Nam ở khu vực Tây Bắc. 
Mặc dù chương trình dạy chữ Mông (cùng với chữ của một số dân tộc thiểu số khác) đã 
được ban hành kèm theo Quyết định Số: 03/2006/QĐ - BGD&ĐT. Tuy nhiên hiệu quả của 
việc dạy chữ Mông Việt Nam ở một số tỉnh miền núi cho đến nay còn chưa đạt được những 
kết quả như mong muốn. Những tồn tại hạn chế có thể kể ra là: Thứ nhất, việc thiếu giáo viên 
sư phạm được đào tạo bài bản về ngôn ngữ và chữ viết dân tộc thiểu số tức là đang thiếu đi cỗ 
máy cái để sản sinh các máy con. Thứ hai, việc thiếu giáo trình và sách giáo khoa đã khiến 
cho sản phẩm đào tạo không có được khối lượng kiến thức cần thiết. Thứ ba, đối tượng người 
học không đồng đều, hoặc chưa từng được tiếp xúc với tiếng Mông hoặc có thể biết tiếng mà 
không biết chữ. Thứ tư, thời gian đào tạo ngắn (từ 3 đến 6 tháng) với hình thức đào tạo không 
liền mạch (thường học vào các ngày nghỉ) khó giúp cho người học có lĩnh hội được những 
kiến thức cần thiết. Thứ năm, trong công tác đào tạo còn thiếu thốn về cơ sở vật chất, kĩ thuật, 
học liệu như băng, đĩa để phục vụ cho việc nghe, nhìn trong quá trình học. Ngoài ra còn kể 
đến những hạn chế khác như số lượng người học ít, thường là một bộ phận cán bộ, công chức, 
viên chức đang công tác ở những địa bàn có người Mông cư trú. Những học viên này sau các 
khóa học chưa có điều kiện để “truyền dạy” cho nhiều người khác. Trong khi đó, một thực tế 
là người Mông đang tiếp xúc hàng ngày thậm chí hàng giờ với bộ chữ Mông Latin (chúng tôi 
gọi là chữ Mông khu vực) thông qua phim ảnh, ca nhạc trên Internet. Điều đó tất yếu dẫn đến 
kết quả là có một số lượng không nhỏ người Mông có thể nghe, nói, đọc, viết được các văn 
bản bằng chữ Mông khu vực mà không thể đọc hay viết bằng chữ Mông Việt Nam. Từ thực tế 
này cho thấy nếu như chúng ta không sớm có những chính sách dạy chữ Mông Việt Nam kịp 
thời và phù hợp trong giai đoạn hiện nay thì rất có thể sẽ có nhiều “phức tạp tiềm ẩn” trong 
một tương lai không xa nhất là về vấn đề chữ viết của dân tộc này. 
3. Kết luận 
Một dân tộc có ngôn ngữ và chữ viết là có được một công cụ quan trọng để sinh tồn, 
phát triển cũng như gìn giữ những giá trị văn hóa của dân tộc mình. Có thể khẳng định, những 
chính sách về ngôn ngữ và chữ viết đối với dân tộc thiểu số của Đảng và Nhà nước ta là đúng 
đắn. Nó thể hiện quan điểm tôn trọng, bình đẳng, cùng phát triển giữa các dân tộc trên lãnh 
thổ Việt Nam. Vấn đề còn lại sau chính sách là làm thế nào để đưa chính sách đúng đắn đó 
vào cuộc sống một cách có hiệu quả. Làm được điều này không chỉ tiết kiệm được ngân sách 
cho quốc gia mà còn hết sức thiết thực trong việc gìn giữ và phát triển văn hóa của các dân 
tộc thiểu số ở Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Bộ Giáo dục Đào tạo (2006). Tài liệu tập huấn giáo viên dạy tiếng Mông cho cán bộ, 
công chức công tác tại vùng dân tộc Mông, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfdan_toc_mong_o_viet_nam_va_mot_so_van_de_ve_ngon_ngu.pdf