Đặc điểm ngữ pháp của tổ hợp V+N trong tiếng Hán (Đối chiếu với tiếng Việt)
Tóm tắt: Tổ hợp động từ kết hợp với danh từ (tổ hợp V+N) trong tiếng Hán có cấu trúc nội tại phong
phú, độ ngưng kết và chức năng ngữ pháp của nó có quan hệ mật thiết đến cấu trúc âm tiết của tổ hợp. Thông qua khảo sát ngữ liệu, bài viết miêu tả cấu trúc nội tại, độ ngưng kết và chức năng của tổ hợp V+N tiếng Hán trong mối liên hệ với cấu trúc âm tiết của nó. Trên cơ sở đó, bài viết đối chiếu với tiếng Việt để tìm ra những điểm khác biệt bên cạnh những điểm tương đồng giữa hai ngôn ngữ cùng loại hình ngôn ngữ đơn lập ở địa hạt tổ hợp V+N này.
òn có thể là các kết tố tự do biểu thị nguyên nhân, địa điểm, phương thức... Điều này chúng tôi sẽ thảo luận sâu khi có điều kiện bàn về đặc điểm ngữ nghĩa của tổ hợp V+N. Xét về chức năng ngữ pháp, các nhà ngữ pháp học Việt Nam (Cao Xuân Hạo, Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Hữu Quỳnh,...) đều nhất trí cho rằng tổ hợp “động – tân” V+N trong tiếng Việt đều mang thuộc tính của một vị từ, tức thường làm vị ngữ chính của câu. Điều này tương tự như tổ hợp có cấu trúc động – tân V+N trong tiếng Hán,Ví dụ: (17) Chủ khách bèn vào buồng ăn cơm. (18) Ai muốn nhờ vả cụ vẽ chữ nghĩa, đều phải có đem cành cau, hoặc gói chè,.. Cũng giống như tiếng Hán, các tổ hợp V+N nếu trong đó V là các động từ ba ngữ trị thì sau tổ hợp có thể xuất hiện một tân ngữ nữa của động từ. Ví dụ: (19) Lĩnh tháng lương đầu tiên Hoài đã tặng mẹ một chiếc khăn len. Hiện tượng cập vật hoá các tổ hợp V+N với các động từ khác trong tiếng Việt cũng rất hiếm như ở tiếng Hán vậy. Các cách nói “viết chữ bút lông, ăn cơm thìa, hạ cánh sân bay Tân Sơn Nhất...” trong tiếng Việt theo chúng tôi đều chỉ là hiện tượng tỉnh lược giới từ trong khẩu ngữ. Một số tổ hợp “động – tân” V+N trong tiếng Việt sau khi ngưng kết có thể chuyển hoá Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 33, Số 1 (2017) 1-108 thành một tính từ để miêu tả tính chất của sự vật, hiện tượng như: có trình độ/ biết việc/ hiểu lễ nghi. Điều này cũng giống với tiếng Hán. Ví dụ: (20) Tìm được người biết việc sẽ tiết kiệm được thời gian. Tổ hợp V+N trong tiếng Việt mặc dù có thuộc tính vị từ cao nhưng khi làm định ngữ, tu sức cho danh từ trung tâm thường không xuất hiện các trợ từ kết cấu. Ví dụ: (21) công tác xây dựng trường/ người nói tiếng Việt/ cách đọc sách/ nghĩa cử giúp đỡ người tàn tật Đây cũng là điểm khác biệt giữa tổ hợp động – tân V+N trong tiếng Việt và tiếng Hán. Khác với tiếng Hán, cấu trúc danh ngữ trong tiếng Việt có trật tự danh từ trung tâm ngữ đứng trước, định ngữ đứng sau. Vì vậy tổ hợp V+N thuần Việt thường không có cấu trúc “định - trung”. Nói đúng hơn, cấu trúc “động - tân” là cấu trúc chiếm tuyệt đại đa số của tổ hợp V+N trong tiếng Việt. Chỉ có một bộ phận nhỏ tổ hợp V+N do chịu ảnh hưởng của tiếng Hán qua quá trình tiếp xúc ngôn ngữ (ở đây là ảnh hưởng của trật tự “định - trung” trong danh ngữ tiếng Hán) nên có cấu trúc “định - trung”. Theo khảo sát của chúng tôi, các tổ hợp V+N có cấu trúc “định – trung” đều đã ngưng kết thành từ hoặc cụm từ cố định với yếu tố cấu tạo đều là âm Hán Việt hoặc một trong số thành tố cấu tạo là âm Hán Việt. Ví dụ: (e1) học sinh/ học phí/ học trò/ độc giả/ hoạ sĩ/ ca sĩ/ tác gia/ tác nhân/ chứng nhân/ hành trình/ trợ thủ/ thành phẩm/ thí sinh/ thích khách/ thực khách/ bại tướng/ đấu trường/ xạ thủ. (e2) phi hành gia/ nhiếp ảnh gia/ phi hành đoàn/ khảo sát phí/ thực tập phí/ thực tập sinh/ phát thanh viên/ liên lạc viên/ điện báo viên/ chỉ huy sở. Xét về mặt ngữ âm, các tổ hợp V+N có cấu trúc “định - trung” của tiếng Việt hoặc có cấu trúc âm tiết “1+1” hoặc có cấu trúc âm tiết “2+1” giống như phần lớn tổ hợp này trong tiếng Hán. Các tổ hợp này của tiếng Việt có độ ngưng kết cao, thường đã trở thành từ ghép hoặc một cụm từ cố định. Xét về nguồn gốc của thành tố cấu tạo thì đại đa số các thành tố cấu tạo của tổ hợp “định – trung” V+N này đều là âm Hán Việt, chỉ một số ít thành tố là thuần Việt như “trò” là từ thuần Việt. Xét về nguồn gốc cả tổ hợp thì một bộ phận tổ hợp này mượn nguyên gốc Hán (gồm thành tố cấu tạo và trật tự từ) rồi chuyển âm Hán Việt để tạo thành từ Hán Việt (học sinh/ độc giả/ tác gia/ chứng nhân/ trợ thủ/ thành phẩm). Một bộ phận khác là mượn các yếu tố Hán và cách tạo từ của tiếng Hán để sáng tạo ra một lớp từ “tựa từ Hán Việt” (thí sinh/ phi hành gia/ phát thanh viên). Các tổ hợp này không có nguyên gốc ở tiếng Hán. Còn một bộ phận nhỏ là mượn một yếu tố Hán ghép với một yếu tố thuần Việt theo cấu trúc Hán để tạo ra một kiểu tổ hợp “bán từ Hán Việt” (học trò). Xét về mặt chức năng ngữ pháp, tổ hợp “định – trung” V+N trong tiếng Việt đã ngưng kết như một danh từ, hoặc một cụm từ cố định mang tính danh từ nên nó mang đầy đủ chức năng ngữ pháp của danh từ. Tức tổ hợp này có thể làm chủ ngữ, tân ngữ, kết hợp được với số lượng từ. Ví dụ: (22) Thí sinh đều đã có mặt đúng giờ. (23) Chúng tôi đã chuyển thực tập phí cho đơn vị tiếp nhận thực tập sinh. (24) Có một phát thanh viên của đài truyền hình là người miền Nam. Tổ hợp này cũng có thể làm danh từ trung tâm trong cụm danh từ, ví dụ: N.H. Anh / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 33, Số 1 (2017) 1-10 9 (25) Hắn hỏi tên điện báo viên người Bắc vừa ló đầu ra. (26) Học phí của trường thu theo đúng thời gian quy định. Tổ hợp “định – trung” V+N trong tiếng Việt cũng có thể làm định ngữ như các danh từ khác. Khi làm định ngữ giữa tổ hợp định ngữ này với danh từ trung tâm có thể có hoặc không có trợ từ kết cấu, tuỳ thuộc vào mức độ quan hệ ngữ nghĩa lỏng chặt của định ngữ với danh từ trung tâm. Ví dụ: (27) Trang phục học sinh thường màu sáng,... (28) Giọng của ca sĩ cần phải được giữ gìn trước khi lên sân khấu. (29) Nhiệm vụ của hoạ sĩ là ghi lại vẻ đẹp của cuộc sống trong các tác phẩm hội hoạ của mình. Như vậy đối chiếu tiếng Hán và tiếng Việt chúng tôi nhận thấy mặc đây là hai ngôn ngữ cùng thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập [N.V.Xtankêvich], giữa chúng có nhiều điềm tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt nhất định. Sự khác biệt rõ rệt nhất trong đặc điểm cấu trúc của tổ hợp V+N là trong tiếng Việt tổ hợp này phần lớn có cấu trúc “động - tân”, chỉ một số ít tổ hợp có nguồn gốc liên quan đến tiếng Hán thì mới có cấu trúc “định - trung”. Khi đó tổ hợp “định - trung” V+N của tiếng Việt chủ yếu là các từ ghép hoặc các cụm từ cố định. Trong tiếng Việt không có tổ hợp V+N mang cả hai cấu cấu trúc “động – tân” và “định - trung”. Trong khi đó ở tiếng Hán, bên cạnh cấu trúc ưu tiên là cấu trúc “động - tân”, cấu trúc “định - trung” cũng khá phổ biến trong tổ hợp V+N. Ngoài ra một số tổ hợp V+N trong tiếng Hán còn mang cả hai cấu trúc trên. Sự khác biệt này là do trong tiếng Hán trật tự trong cụm danh từ là định ngữ đứng trước danh từ trung tâm, vì thế nếu động từ trong tổ hợp V+N tu sức được cho danh từ của chính tổ hợp đó thì cả tổ hợp có dạng cấu trúc “định - trung”. Còn trong tiếng Việt muốn tạo ra một cụm danh từ thì vị trí giữa động từ và danh từ trong tổ hợp phải đảo ngược lại, vì trật tự từ trong nội bộ cụm danh từ tiếng Việt là danh từ trung tâm ngữ đứng trước định ngữ. Khi là cấu trúc “động - tân” thì tổ hợp V+N ở cả tiếng Hán và tiếng Việt đều mang tính vị từ, khi là cấu trúc “định - trung” thì chúng đều mang tính thể từ. Giữa tổ hợp “động – tân” V+N trong tiếng Việt và tổ hợp cùng loại trong tiếng Hán cũng có khác biệt tế nhị. Theo đó khi cả tổ hợp V+N làm định ngữ tu sức cho một danh từ ngoài tổ hợp thì ở tiếng Hán thường phải xuất hiện trợ từ kết cấu “的”, tính vị từ của cả tổ hợp lúc này được thể hiện khá rõ rệt. Trong khi đó ở tiếng Việt nếu tổ hợp V+N làm định ngữ thường kết hợp trực tiếp với danh từ. Tính vị từ của nó vì thế có thể bị mờ đi, trở thành một đơn vị mang tính khu biệt từ, tương tự như khi tổ hợp “động – tân” V+N ở tiếng Hán kết hợp trực tiếp với danh từ trung tâm. Ngoài những khác biệt trên thì tổ hợp V+N của tiếng Hán và tiếng Việt đều chịu ảnh hưởng nhất định của yếu tố ngữ âm, tức cấu trúc âm tiết có ảnh hưởng đến cấu trúc nội tại của tổ hợp. Tuy nhiên ở tiếng Hán ảnh hưởng này rõ rệt hơn nên tạo ra những cấu trúc khá phức tạp trong nội bộ của tổ hợp. Có thể nói, đặc điểm ngữ pháp của tổ hợp V+N trong tiếng Hán tuy không phải là vấn đề nghiên cứu mới, song đặt nó trong mối liên hệ với đặc điểm cấu trúc âm tiết và trong sự đối chiếu với tiếng Việt để làm rõ mối quan hệ giữa bình diện ngữ âm, ngữ pháp và tìm ra sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ cùng loại hình Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 33, Số 1 (2017) 1-1010 đơn lập, thiết nghĩ cũng có tác dụng nhất định trong nghiên cứu giảng dạy tiếng Hán và tiếng Việt như một ngoại ngữ. Tài liệu tham khảo Tiếng Việt Cao Xuân Hạo (1998). Tiếng Việt: mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa . Nxb Giáo dục. Nguyễn Văn Hiệp (2009). Cú pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục Việt Nam. Nguyễn Hữu Quỳnh (1994). Tiếng Việt hiện đại (Ngữ âm, ngữ pháp, phong cách), Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam. N.V.Xtankêvich (1982). Loại hình các ngôn ngữ (Bản dịch tiếng Việt). Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp. Tiếng Trung 冯胜利 (2005).《汉语韵律语法研究》北京大 学出版社. 郭锐 (2002).《现代汉语词类研究》商务印 书馆. 黄伯荣、廖序东 (2002).《现代汉语》高等 教育出版 社. 张斌、齐沪扬 (2000).《现代汉语短语》华 东师范大学出版社. 朱军、盛新华 (2008). “‘动宾结构带宾 语’格式成因探究”《汉语学习》,第3 期. Từ điển Trung tâm từ điển học (1997). Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. 中国社会科学院语言研究所 (2007).《现代汉 语词典》第五版,商务出版社. GRAMMATICAL FEATURES OF V+N PHRASES IN CHINESE (IN CONTRAST WITH VIETNAMESE) Nguyen Hoang Anh Faculty of Chinese Language and Culture, VNU University and Languages and International Studies, Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Abstract: The combinations of verbs and nouns (V+N phrases) in Chinese are rich in internal structures and syntactic fusion, and their grammatical functions are closely related to their syllabic structures. Through data analysis, description of internal structures, degree of fusion and functions of Chinese V+N phrases, the paper discusses the relationship between these phrases and their syllabic structures. On that basis, Chinese V+N phrases are contrasted with their Vietnamese counterparts so as to identify their differences apart from similarities between the two languages of the same isolating type. Keywords: V+N phrases, grammatical features, Chinese-Vietnamese contrast
File đính kèm:
- dac_diem_ngu_phap_cua_to_hop_vn_trong_tieng_han_doi_chieu_vo.pdf