Đặc điểm cú pháp trong "Chuyện cũ Hà Nội" của Tô Hoài

TÓM TẮT

Tô Hoài là một nhà văn "góp mặt" trên văn đàn Việt Nam từ đầu những năm 40 của thế kỉ XX.

Các sáng tác của ông suốt hành trình hơn nửa thế kỉ có sự nhất quán, có bước phát triển, có tính

sáng tạo so với văn học thời kì trước, đặc biệt là về phương diện cú pháp. Là một nhà văn có cảm

quan hiện thực đời thường nên ông cảm nhận cuộc sống từ sự tồn tại tự thân của nó. Ngôn ngữ văn

Tô Hoài chính là minh chứng của cuộc hành trình hiện đại hoá lối diễn đạt của cú pháp văn xuôi

hiện đại.

pdf5 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 401 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Đặc điểm cú pháp trong "Chuyện cũ Hà Nội" của Tô Hoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ơn hai thành phần 
không đơn thuần chỉ có 2 thành phần là chủ 
ngữ và vị ngữ mà nhà văn thường sử dụng 
trạng ngữ, đề ngữ hoặc nhiều vị ngữ cùng một 
lúc. Có những truyện câu đơn hai thành phần 
chiếm quá nửa số câu trong truyện như Ông 
Ấm có 156 câu thì có tới 95/156 câu đơn, 
chiếm 60,8% toàn truyện. 
Ví dụ: 
- Tên ông ấy // không phải là Ấm. (Ông Ấm) 
- Chúng tôi // là ba người. (Thịt chó) 
- Đầu chợ, hàng cháo bột // se khói um. 
 (Bánh chợ) 
- Cụ xã vị // nho nhã, búi tóc củ hành. 
 (Cúp tóc)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Lê Thị Như Nguyệt và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 27 - 31 
 29
Văn chương Tô Hoài gần gũi với cuộc sống 
đời thường nên câu đơn hai thành phần được 
sử dụng để mô tả lại sự vật, hiện tượng, 
những diễn biến của cuộc sống đang diễn ra 
dưới con mắt quan sát tinh tế của nhà văn. Có 
thể khẳng định đây là sự tiến bộ của cú pháp 
văn xuôi Tô Hoài so với thời kì văn xuôi nửa 
đầu thế kỉ XX. Nếu như đặc điểm cú pháp của 
văn xuôi nửa đầu thế kỉ XX có nhiều dấu ấn 
của lối diễn đạt tự nhiên như trong các văn 
bản (Nôm và Quốc ngữ) của giáo hội Thiên 
chúa giáo (viết câu dài, có nhiều liên từ, lối 
viết biền ngẫu), hay như trong tiểu thuyết Tố 
Tâm của Hoàng Ngọc Phách còn có nhiều dấu 
ấn cũ (nhiều câu dài còn giữ lối viết biền 
ngẫu, đăng đối) chưa thực sự thuyết phục, thì 
đến thời điểm nửa cuối thế kỉ XX, cú pháp 
của các thể văn xuôi đã được cách tân theo 
hướng hiện đại hoá, trong đó có Nam Cao, 
Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Tuân Đặc 
trưng nổi bật là lối diễn đạt mệnh đề với ưu 
thế của các câu đơn và câu ngắn. Nhờ đó câu 
văn trở nên nhẹ nhàng, hiện đại, có năng lực 
biểu đạt cao. 
Mỗi nhà văn khi phản ánh hiện thực đều tìm 
cho mình một mảng đề tài tâm huyết. Nếu 
Nam Cao đến với những bi kịch của con 
người, Thạch Lam đến với những số phận, 
những cuộc đời buồn tẻ... thì Tô Hoài trong 
cuộc đời sáng tạo nghệ thuật luôn đến với con 
người và cuộc sống dung dị, đời thường. 
Trong 10 truyện khảo sát, chúng tôi thống kê 
được 164/1098 câu đơn đặc biệt, chiếm 
14,9%, trong đó: câu đơn đặc biệt danh từ có 
81/1098 câu, chiếm 7,4%, với tần số xuất hiện 
10/10 truyện; câu đơn đặc biệt - vị từ, có 
83/1098 câu, chiếm 7,5%, với tần số xuất hiện 
10/10 truyện. Sử dụng các kiểu câu này Tô 
Hoài đã khắc họa được những cái đời thường 
trong cuộc sống với văn phong hết sức mộc 
mạc, giản dị, gần gũi, tạo nên một giọng điệu 
riêng trong sáng tác của Tô Hoài. 
Ví dụ: 
- Câu đơn đặc biệt – danh từ: 
+ Tơ Tứ Tổng. Tơ Phùng. (Phố hàng Đào) 
+ Dãy đầu này, hàng bánh đúc. (Bánh chợ) 
+ Chả chó Hà Nội. (Thịt chó) 
- Câu đơn đặc biệt – vị từ: 
+ Trong sân, trên tường cũng có tượng thánh, 
có thập ác. (Bên đạo) 
+ Chỉ còn đợi chốc nữa lấy tiền. 
(Phố hàng Đào) 
+ Trên đường phố xép lơ thơ mấy nhà bên 
đồng trũng. (Con đường quen thuộc) 
Do muốn giảm bớt sự rườm rà trong câu văn 
nên Tô Hoài đã sử dụng rất nhiều câu đơn. 
Nhưng nhiều khi câu đơn trong Chuyện cũ Hà 
Nội thường được nhà văn mở rộng thành phần 
câu. Ông rất hay sử dụng: trạng ngữ, đề ngữ, 
giải ngữ, câu đơn nhiều vị ngữ khiến cho 
câu văn dài. 
Ví dụ: 
- Ngày ra ở hàng Mã, vào chợ Đồng Xuân, u 
cho ăn cái nem chả. (Bánh chợ) 
- Các cô đêm hôm khách khứa, ban ngày lại 
cấy gặt. (Con đường quen thuộc) 
Khi nói về sự phát triển của cú pháp tiếng 
Việt nửa đầu thế kỉ XX, nhiều tác giả thường 
nhấn mạnh vào khía cạnh biến đổi cấu trúc 
câu. Những câu dài được loại bớt, thay vào đó 
là những câu ngắn và câu đơn. Tô Hoài là một 
trong những nhà văn có hướng cách tân mới: 
Ông sử dụng nhiều câu đơn ngắn gọn, có lối 
tổ chức tự do về trật tự từ và các thành phần 
phụ. Những câu đơn được sử dụng để trần 
thuật, miêu tả về cuộc sống đời thường xung 
quanh Tô Hoài. 
Ngoài câu đơn hai thành phần, Tô Hoài cũng 
sử dụng rất nhiều câu dưới bậc (câu khuyết 
chủ, câu ẩn chủ, câu dưới bậc có tính vị ngữ 
lâm thời): 202/1098 câu, chiếm 18,4%, trong 
đó câu khuyết chủ được sử dụng nhiều nhất: 
105/1098 câu, chiếm 9,6%, với tần số xuất 
hiện 9/10 truyện; câu ẩn chủ có 87/1098 câu, 
chiếm 7,9%, với tần số xuất hiện 10/10 
truyện; câu dưới bậc có tính vị ngữ lâm thời 
có 10/1098 câu, chiếm 0,9%, với tần số xuất 
hiện 2/10 truyện. 
Ví dụ: 
- Câu đơn khuyết chủ: 
+ Nghe nói ngày trước cũng có người chết ở 
đấy. (Bên đạo) 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Lê Thị Như Nguyệt và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 27 - 31 
 30
- Câu đơn ẩn chủ: 
+ Tôi khệ nệ bưng đặt lên đầu hè. Rồi đem đến 
một đôi guốc mộc, để bên cạnh. (Ông Ấm) 
- Câu dưới bậc có tính vị ngữ lâm thời: 
+ Trong nhà. Mợ Hai vẫn mải đo lụa, cẩn 
thận, thong thả. (Phố hàng Đào) 
Với một nhà văn luôn đi khai thác những cái 
"đời thường": chuyện làng, chuyện chợ búa, 
các thú vui sở thích thì ngôn ngữ văn 
chương của ông gần với lối nói khẩu ngữ là 
chuyện dễ hiểu. Vì thế, Tô Hoài đã sử dụng 
câu khuyết chủ, ẩn chủ để làm ngắn câu văn, 
gần với văn phong khẩu ngữ, để tránh lặp 
lại đối tượng được nói xuyên suốt trong 
tác phẩm. 
Ví dụ: 
- Đi giữa ban ngày mà cứ rờn rợn. 
(Tìm vàng) 
- Cứ việc lách lỗ đồng xu, bẻ khắc khắc. 
(Bắt chuột) 
- Tay đo lụa xong khấu luôn tiền tơ. 
(Phố hàng Đào) 
Tô Hoài sử dụng câu khuyết chủ, ẩn chủ 
khiến cho lời nói của mỗi nhân vật ngắn gọn 
chỉ vừa đủ lượng thông tin cho câu trước. Nó 
rất phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm tâm lí, 
trình độ tư duy của những người dân lao động 
bình thường. 
Không chỉ trong Chuyện cũ Hà Nội mà dù 
viết về đề tài nào thì từng lời văn cũng có xu 
hướng giảm lược, câu văn thường không đủ 
các thành phần chính và nó chỉ đứng được 
trong những văn cảnh cụ thể. Tuy nhiên, cách 
thể hiện này của Tô Hoài không những đảm 
bảo được lượng thông tin mà còn thể hiện 
được những tầng bậc ý nghĩa khác. Người 
đọc, người nghe thấy hơi thở của đời sống đi 
vào văn chương, khẳng định mối quan hệ 
khăng khít giữa văn chương với cuộc đời. 
Ngoài ra, trong Chuyện cũ Hà Nội Tô Hoài 
còn sử dụng cả câu ghép và câu phức, với số 
lượng 156/1098 câu, chiếm 15%, trong đó, câu 
phức là 97 câu, chiếm 8,8%, với tần số xuất 
hiện 10/10 truyện; câu ghép là 59 câu, chiếm 
5,4%, với tần số xuất hiện 10/10 truyện. 
Ví dụ: 
- Câu phức: 
+ Trẻ con // hay nghe người lớn nói chuyện 
ma. (Tìm vàng) 
+ Tôi //đứng nhìn lên cái lồng bẫy của thằng 
Bách, lâu đến thế nào, tôi mải không biết 
ông tôi đến đặt tay lên vai tôi. (Bẫy chim, 
chơi chim) 
- Câu ghép: 
+ Ông // vừa quét ra đến ngoài sân đất, mà 
tôi // cũng không để ý. (Bẫy chim, chơi chim) 
+ Chẳng ai // thóc mách mà khắp xóm // đã 
biết sự tình chị ấy ra sao. (Ông Ấm) 
Câu phức và câu ghép trong Chuyện cũ Hà 
Nội được Tô Hoài sử dụng để làm dài câu. 
Kiểu câu này thường có các thành phần phụ 
đi kèm như: trạng ngữ, chú thích, tình thái, 
khiến cho người đọc cảm thấy những câu văn 
giống như những đoạn văn rườm rà. Vì thế, 
hai loại câu này không được Tô Hoài sử 
dụng nhiều. 
(Xem thêm bảng khảo sát đặc điểm cú pháp 
trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài) 
3. Như vậy trong Chuyện cũ Hà Nội, Tô Hoài 
đã sử dụng rất nhiều kiểu câu như câu đơn hai 
thành phần, câu đặc biệt (câu đặc biệt - danh 
từ, câu đặc biệt - vị từ), câu dưới bậc (câu ẩn 
chủ, câu khuyết chủ, câu dưới bậc có tính vị 
ngữ lâm thời), câu phức, câu ghép, trong đó 
nhà văn chủ yếu sử dụng câu đơn, câu đặc 
biệt và câu dưới bậc. Việc sử dụng những 
kiểu câu này có chi phối nhất định đến độ dài 
câu (chúng tôi sẽ trình bày ở bài viết sau). 
Nhưng quan trọng hơn nó góp phần tạo nên 
đặc điểm ngôn ngữ văn chương của tác phẩm 
nói riêng và cả phong cách nghệ thuật của Tô 
Hoài. Đọc Chuyện cũ Hà Nội ta thấy một Tô 
Hoài nhạy cảm với ngữ cảnh sinh hoạt, phong 
tục, những tập tục, thói quen của từng vùng 
quê, từng gia đình, từng con người. Từ những 
cảnh sinh hoạt đặc thù ấy, Tô Hoài vừa phản 
ánh sinh động đời sống vật chất và tinh thần 
của Hà Nội xưa, vừa thể hiện đời sống lịch 
sử, xã hội hiện tại. Cảm hứng sau cách mạng 
của nhà văn hoàn toàn nhất quán với cảm 
hứng trước cách mạng. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Lê Thị Như Nguyệt và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 27 - 31 
 31
Trên chặng đường hơn 70 năm sáng tạo nghệ 
thuật của mình, Tô Hoài đã lặng lẽ, bền bỉ, 
thủy chung để tạo nên bản sắc riêng có. Tô 
Hoài là một nhà văn vừa tinh tế, vừa sắc sảo, 
nhưng cũng là nhà văn của con người và cuộc 
sống bình dị, đời thường. Ngôn ngữ văn 
chương Tô Hoài mang một vẻ đẹp giản dị, 
mộc mạc... càng đi sâu tìm hiểu, ta càng thấy 
những điều lí thú, hấp dẫn trên từng trang văn 
của ông. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Diệp Quang Ban (1987), Câu đơn tiếng Việt, 
Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[2]. Diệp Quang Ban (1996), Ngữ pháp tiếng Việt, 
T1, 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[3]. Tô Hoài (1986), Chuyện cũ Hà Nội, Nxb Văn 
học, Hà Nội. 
[4]. Phong Lê, Vân Thanh (2000), Tô Hoài về tác 
gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
ABSTRACT 
SYNTACTIC CHARACTERISTICS IN “CHUYEN CU HA NOI” BY TO HOAI 
Le Thi Nhu Nguyet1*, Pham Kim Thoa2 
1Thai Nguyen University Press - TNU 
2College of Information Technology and Communication - TNU 
To Hoai is a writer who has taken part in the Vietnamese literary circles since the beginning of the 
1940s of the twentieth century. He was consistent in all his works during the time of over half a 
century. In comparison with the other pieces of work in the previous period, his literature had 
gained considerate developments and creation, especially in terms of syntax. Being an author of 
ordinal real life perception, he feels life from the very existence of it. To Hoai’s literature style is 
the evidence of the process of modernizing expressions of modern prose syntax 
Key words: Syntax, sentence, Chuyen cu Ha Noi, short stories, To Hoai, language 
*
 Tel: 0973216622, Email: lenguyet.dhtn@gmail.com 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_cu_phap_trong_chuyen_cu_ha_noi_cua_to_hoai.pdf