Các nhân tố quyết định độ trễ kiểm toán của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam
Tóm tắt
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định các nhân tố tác động đến độ trễ kiểm toán của các
công ty niêm yết tại Việt Nam. Dựa trên số liệu của 176 công ty niêm yết tại Việt Nam trong
giai đoạn 2013-2016, kết quả phân tích hồi quy với dữ liệu nhóm cho thấy độ trễ kiểm toán
của các công ty niêm yết tại Việt Nam được quyết định bởi bốn nhân tố: chất lượng công ty
kiểm toán, mức độ sinh lời của doanh nghiệp, lượng hàng trong kho và các khoản phải thu,
và lượng kế toán dồn tích của doanh nghiệp. Cụ thể, mức độ sinh lời của công ty có tác động
nghịch biến lên độ trễ của báo cáo tài chính kiểm toán. Khối lượng hàng hóa trong kho và
các khoản phải thu ngắn hạn của doanh nghiệp có tác động đồng biến lên độ trễ kiểm toán
của doanh nghiệp. Trái với kết quả nghiên cứu ở các nước khác, tại Việt Nam, các doanh
nghiệp được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán chất lượng cao thường có độ trễ báo cáo
dài hơn; và các công ty có tổng lượng kế toán dồn tích lớn lại có độ trễ kiểm toán thấp hơn
các công ty khác. Kiểm định tăng cường bằng mô hình hồi quy dữ liệu bảng với hiệu ứng
ngẫu nhiên cũng xác nhận lại kết quả này
trễ kiểm toán càng dài. Bảng 5. Kết quả ước lượng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên Biến Dấu kỳ vọng Hệ số hồi quy Chỉ số z Chỉ số p Kết luận Giao điểm 4.297449*** 12.49 0.000 LNSIZE + -0.004502 -0.26 0.792 BIG4 - 0.0906582** 2.46 0.014 + AC - 0.0400313 1.23 0.220 ROA - -0.0054327*** -5.76 0.000 - AUDITOPI + 0.0678027 1.41 0.158 SUBS + 0.0040778 1.49 0.135 INVREC + 0.0017119** 2.53 0.011 + TA + -0.1870384* -1.84 0.065 - LEV + 0.0002131 0.26 0.793 N 704 R2 0.1139 Wald Chi-sq 68.50 Chỉ số p 0.0000 Ghi chú: Bảng trên trình bày kết quả ước lượng cho mô hình sau đây: itiit10it9 it8it7it6it5it4it3it21it uLEVTA INVRECSUBSAUDITOPIROAAC4BIGLNSIZELNARL Kiểm định Hausman (1978) và kiểm định Breusch-Pagan (1980) được thực hiện và cho ra chỉ số kiểm định tương ứng là chỉ số Wald Chi-square = 6.53 (p-value=0.6858) và Wald Chi-square = 163.53 (p- value=0.0000). Kết quả kiểm định cho thấy định dạng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên là định dạng hiệu quả nhất và được chọn làm mô hình nghiên cứu chính cho nghiên cứu này. *, **, ***: Thể hiện mức ý nghĩa thống kê tương ứng là 10%, 5%, và 1%; +, - : Tương ứng có nghĩa là có mối quan hệ đồng biến, và có mối quan hệ nghịch biến với ý nghĩa thống kê từ 5% trở lên. Tuy nhiên, hai nhân tố là Chất lượng của công ty kiểm toán và Lượng kế toán dồn tích lại có tác động đến độ trễ kiểm toán không giống như quan sát được ở các nước khác. Cụ thể, tại Việt Nam, các công ty kiểm toán được coi là có chất lượng cao (nằm trong nhóm Big 4) lại có độ trễ kiểm toán lâu hơn các công ty kiểm toán khác, trong khi các Nguyễn Thanh Hồng Ân và Hoàng Mai Phương 17 nghiên cứu ở các nước phát triển lại không tìm ra chứng cứ về mối quan hệ này (Carslaw & Kaplan, 1991; Davies & Whittred, 1980; Garsombke, 1981; Vuko & Cular, 2014), hoặc cho thấy điều ngược lại (Gilling, 1977). Tương tự, trong khi chứng cứ ở các nước khác cho thấy các công ty có tổng các khoản kế toán dồn tích càng lớn thì càng mất nhiều thời gian để thực hiện kiểm toán, chứng cứ tại Việt Nam lại cho thấy các công ty có các khoản kế toán dồn tích cao thì lại được kiểm toán nhanh hơn. Hai khác biệt giữa hành vi báo cáo tài chính của doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp ở các nước khác được phỏng đoán là do có sự khác biệt trong công nghệ kiểm toán giữa các công ty kiểm toán. Các công ty kiểm toán có chất lượng cao và có uy tín thường có quy trình kiểm toán khắt khe để bảo vệ uy tín của mình, trong khi các công ty kiểm toán nhỏ có thể có quy trình kiểm toán đơn giản hơn, do nguồn lực bị hạn chế. Có thể vì lý do này mà thời gian kiểm toán của các công ty thuộc nhóm Big 4 tại Việt Nam lại lâu hơn các công ty kiểm toán nhỏ khác tại địa phương. Ngoài ra, các khoản kế toán dồn tích được coi là khu vực có thể xảy ra các hoạt động quản trị số liệu lợi nhuận. Do vậy, các công ty kiểm toán thường phải dành nhiều thời gian hơn để kiểm tra các công ty có khoản kế toán dồn tích cao để tránh trường hợp số liệu báo cáo bị điều chỉnh (dù hợp pháp) và không phản ánh đúng tình hình tài chính thực tế của doanh nghiệp. Việc quan sát được mối quan hệ ngược lại tại thị trường Việt Nam có thể là một tín hiệu không tốt về chất lượng hoạt động kiểm toán tại Việt Nam. Những điểm khác biệt này có thể mang hàm ý rất quan trọng đối với các nhà làm chính sách và các nhà đầu tư tại Việt Nam. Để có câu trả lời chính xác, hai nhân tố khác biệt này cần được nghiên cứu kỹ hơn và với số liệu chi tiết hơn trong một nghiên cứu riêng biệt. 5. KẾT LUẬN Dựa trên kết quả phân tích, nghiên cứu này chỉ ra bốn nhân tố có tác động lên độ trễ báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, bao gồm: Chất lượng của công ty kiểm toán (BIG4); Tình hình tài chính của doanh nghiệp (ROA); Khối lượng hàng tồn kho và các khoản phải thu (INVREC); và Tổng các khoản kế toán dồn tích (TA). Trong bốn nhân tố tác động đến độ trễ kiểm toán của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, có hai nhân tố, là Tình hình tài chính của doanh nghiệp và Lượng hàng trong kho và các khoản phải thu, có tác động lên độ trễ kiểm toán theo hướng trùng hợp với các nghiên cứu ở các nước khác. Theo đó, trong bối cảnh Việt Nam, tình hình tài chính doanh nghiệp càng khả quan thì độ trễ kiểm toán càng ngắn và khối lượng hàng tồn kho và các khoản phải thu càng lớn thì độ trễ kiểm toán càng dài. Tuy nhiên, hai nhân tố còn lại là Chất lượng của công ty kiểm toán và Lượng kế toán dồn tích lại có tác động đến độ trễ kiểm toán không giống như quan sát được ở các nước khác. Cụ thể, tại Việt Nam, các công ty kiểm toán được coi là có chất lượng cao (nằm trong nhóm Big 4) lại có độ trễ kiểm toán lâu hơn các công ty kiểm toán khác. Tương tự, chứng cứ ở các nước khác cho thấy doanh nghiệp có giao dịch kế toán dồn tích càng cao thường có độ trễ báo cáo tài chính kiểm toán càng dài. Dù đã đưa ra được một số kết quả nghiên cứu có ý nghĩa, đóng góp vào kho tàng nghiên cứu về chủ đề độ trễ báo cáo tài chính kiểm toán nói chung, nghiên cứu này cũng không tránh khỏi một số hạn chế. Thứ nhất, nghiên cứu này thực hiện dựa trên một tập TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ] 18 dữ liệu không lớn, với chỉ 176 công ty, được khảo sát trong 4 năm, từ 2013-2016. Các nghiên cứu tương lai có thể mở rộng nghiên cứu này bằng cách thu thập thêm dữ liệu từ nhiều công ty và trong một giai đoạn dài hơn để gia tăng sức mạnh của các phép kiểm định giả thuyết, từ đó làm tăng sự tin cậy của các kết luận. Thứ hai, mô hình nghiên cứu sử dụng trong nghiên cứu này chỉ giới hạn sử dụng một số biến hạn chế và khá thông dụng trong ngành. Các nghiên cứu trong tương lai có thể bổ sung vào mô hình các biến khác, ví dụ các biến về chất lượng hội đồng quản trị, để mở rộng phạm vi nghiên cứu và gia tăng khả năng giải thích của mô hình. Cuối cùng, nghiên cứu này chỉ giới hạn ở việc xác định các nhân tố quyết định độ trễ kiểm toán của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam mà không đưa ra các lý giải cho các kết quả. Các nghiên cứu tương lai có thể mở rộng nghiên cứu này bằng cách đưa ra các lý giải cho các kết quả phân tích trong nghiên cứu này, đặc biệt là cho hai nhân tố khác biệt được chỉ ra trong nghiên cứu này: giải thích lý do tại sao công ty kiểm toán chất lượng cao lại có thời gian kiểm toán lâu hơn và các công ty có khoản kế toán dồn tích cao lại được kiểm toán nhanh hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Abdulla, J. (1996). The timeliness of Bahraini annual reports. Advances in International Accounting, 9, 73-88. Ashton, R., Willingham, J., & Elliott, R. (1987). An empirical analysis of audit delay. Journal of Accounting Research, 25, 275-292. Ashton, R. H., Graul, P. R., & Newton, J. D. (1989). Audit delay and the timeliness of corporate reporting. Contemporary Accounting Research, 5, 657-673. Bamber, E. M., Bamber, L. S., & Schoderbek, M. P. (1993). Audit structure and other determinants of audit report lag: An empirical analysis. Auditing: A Journal of Practice & Theory, 12(1), 1-23. Bộ Tài chính. (2015). Thông tư 155/2015/TT-BTC: Hướng dẫn công bố thông tin trên Thị trường chứng khoán. Hà Nội, Việt Nam: Bộ Tài chính. Được truy lục từ D=30653 Breusch, T., & Pagan, A. (1980). The Lagrange Multiplier Test and its application to model specification in econometrics. Review of Economic Studies, 47, 239-254. Carslaw, C. A. P. N., & Kaplan, S. E. (1991). An examination of audit delay: Further evidence from New Zealand. Accounting & Business Research, 22, 21-32. Che-Ahmad, A., & Abidin, S. (2009). Audit delay of listed companies: A case of Malaysia. International Business Research, 1, 32-39. Courtis, J. (1976). Relationships between timeliness in corporate reporting and corporate attributes. Accounting and Business Research, 6, 46-56. Davies, B., & Whittred, G. (1980). The association between selected corporate attributes and timeliness in corporate reporting: Further analysis. ABACUS, 16, 48-60. Dyer, J. C., & McHugh, A. J. (1975). The timeless of the Australian annual report. Journal of Accounting Research, 13, 204-219. Nguyễn Thanh Hồng Ân và Hoàng Mai Phương 19 Garsombke, H. (1981). The timeliness of corporate financial disclosure. In J. K. Courtis (Ed.), Communications via annual reports, AFM Exploratory Series No. 11 (pp. 204-218). Armidale, Australia: University of New England. Gilling, D. (1977). Timeliness in corporate reporting: Some further comment. Accounting and Business Research, 7, 34-36. Hausman, J. A. (1978). Specification tests in econometrics. Econometrica, 46, 1251- 1272. IASB. (2008). Exposure draft of an improved conceptual framework for financial reporting. London, England: IASB. Jaggi, B., & Tsui, J. (1999). Determinants of audit report lag: Further evidence from Hong Kong. Accounting and Business Research, 30(1), 17-28. Ng, P. P. H., & Tai, B. Y. K. (1994). An empirical examination of the determinants of audit delay in Hong Kong. British Accounting Review, 26(1), 43-59. Owusu-Ansah, S. (2000). Timeliness of corporate financial reporting in emerging capital markets: Empirical evidence from the Zimbabwe Stock Exchange. Accounting and Business Research, 30, 241-254. Owusu-Ansah, S., & Leventis, S. (2006). Timeliness of corporate annual financial reporting in Greece. European Accounting Review, 15, 273-287. Quốc hội. (2015). Luật Kế toán số 88/2015/QH13. Hà Nội, Việt Nam: Văn phòng Quốc hội. Türel, A. (2010). Timeliness of financial reporting in emerging capital markets: Evidence from Turkey. Istanbul University Journal of the School of Business Administration, 39(2), 227-240. Vuko, T., & Cular, M. (2014). Finding determinants of audit delay by pooled OLS regression analysis. Croatian Operational Research Review, 15, 81-91. Wooldridge, J. M. (2002). Introductory Econometrics: A modern approach. Massachusetts, USA: Cengage Learning Press.
File đính kèm:
- cac_nhan_to_quyet_dinh_do_tre_kiem_toan_cua_cac_doanh_nghiep.pdf