Biểu tượng nước trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000

Tóm tắt: Đối với văn học, có nhiều con đường khác nhau để giải mã tác phẩm,

trong đó làm rõ các tầng ý nghĩa của các biểu tượng trong tác phẩm là một

hướng đi thú vị. Khảo sát tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000, chúng tôi

nhận thấy có rất nhiều biểu tượng, trong đó biểu tượng nước chứa đựng rất nhiều

hàm nghĩa khác nhau về con người và cuộc sống. Trong bài viết này, biểu tượng

nước vừa mang ý nghĩa thanh lọc và xoa dịu nỗi đau của con người, là biểu

tượng của sự tái sinh, đồng thời nó còn là biểu tượng của sự tàn phá và hủy diệt.

Với nhiều biến thể khác nhau, nước vừa lưu giữ những cơ tầng văn hoá của dân

tộc, vừa có khả năng trở thành những biểu tượng và những cổ mẫu văn chương

mới, chứa đựng những hàm nghĩa mới của văn hoá đương đại.

pdf8 trang | Chuyên mục: Văn Hóa Học | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 224 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Biểu tượng nước trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
cuộc chiến, vũ trụ chìm trong mưa và mưa là biểu tượng khủng khiếp của 
chiến tranh” [4, tr.275]. Cũng nằm trong cảm quan về chiến tranh, Biển trở thành biểu 
tượng mang ý nghĩa dự báo cho những khủng khiếp của chiến tranh đang chờ đợi Kiên 
và Phương phía trước. Biển gắn với tuổi mười sáu của Kiên và Phương “Một kỉ niệm thân 
yêu nhưng sao mà xa xôi và buồn” [6[6], tr.203]. Từ buổi cắm trại hơn hai mươi năm 
trước, trước biển Phương đã có một dự cảm không tốt về tương lai “Biển làm sao ấy, sợ 
sợ thế nào. Kiên có nhận thấy không?” [6[6], tr.205]. Rồi Phương hát, cả giai điệu và lời 
bài hát chứa đựng cả niềm say mê lẫn nỗi buồn đau trước thời cuộc, những ước mơ nồng 
cháy và cả những tiên cảm xót đau về một lớp thanh niên sinh ra để dành cho cuộc chiến 
tranh bắt đầu từ hôm ấy. “Chiến tranh! Chiến tranh! Ấy chính là tiếng gầm của biển trong 
suốt đêm mồng bốn rạng mộng năm tháng tám. Bãi cát dài hình vòng cung ầm ầm sóng 
xô” [6, tr.206]. Dường như biển cũng cảm nhận được thời khắc của lịch sử đang đến, báo 
hiệu một sự chia xa, mất mát và nhiều hi sinh. Cùng với biểu tượng Nước, Nỗi buồn chiến 
10 PHAN THÚY HẰNG 
tranh còn chứa đựng trong nó nhiều biểu tượng đầy ám ảnh về bóng đêm, cây hồng ma, 
truông Gọi Hồn Đây cũng có thể xem là cuốn tiểu thuyết hay nhất về đề tài chiến tranh 
và số phận người lính thời hậu chiến trong dòng tiểu thuyết Việt Nam sau 1986. Mưa 
trong Lời nguyền hai trăm năm mang ý nghĩa như là một thứ vũ khí của Biển cả và Thần 
rừng. Mối thù của họ bắt nguồn từ việc Mặt trời muốn kén chồng cho con gái là Mặt 
Trăng. Mặt trời vừa ưng Thần rừng vừa thích Biển cả, nên đã quyết định để cả hai giao 
đấu. Cát là vũ khí của Biển, đá là vũ khí của Thần rừng. Cuộc giao chiến bất phân thắng 
bại nên đến giờ Mặt Trăng vẫn cô đơn. Từ đó có thêm câu chuyện “Người dân tộc là con 
cháu Thần rừng, bị cấm không được đi biển. Ai cãi lại, thì hoặc Biển cả sẽ bắt làm tù 
binh, hoặc Thần rừng bắt về đất liền để trừng trị” [10, tr.747]. Ngoài những vũ khí là Cát 
và Đá thì Mưa là một vũ khí để bổ trợ cho cuộc chiến không có hồi chấm dứt ấy. Mưa từ 
Biển cả chắn lối ngăn cản bà Cả trên đường đi tìm Tài Nguyễn để đòi quyền lợi cho người 
dân tộc: “Bà Cả Mọi đội mưa đi về rừng. Mưa rơi không ngớt hạt. Cơn mưa kéo vào đất 
liền từ ngoài khơi, là cơn mưa của biển cả. Biển cả muốn gây chiến với Thần rừng của 
bà” [10, tr.783-784]. Nhưng Thần rừng cũng không vừa, liền tuyên chiến với Biển cả: 
“Lần này là mưa rừng ào kéo ra khơi. Mây đen kịt bầu trời. Cứ như sau lần biển động 
trước, do biển cả gây chiến, mà lần này thần rừng nổi giận trả thù. Mưa như trút nước cả 
ngày trời” [10, tr.788]. Cuộc chiến bất phân thắng bại giữa Thần rừng và Biển cả bao năm 
qua vẫn không có hồi kết, dân làng chài lẫn người của đồng bào dân tộc luôn là những 
người phải gánh chịu những hậu quả nặng nề từ mối thù ấy: “Người đi biển gặp nạn do 
cuộc chiến giữa Thần rừng và biển cả” [10[10], tr.791]. Một biến thể khác của Nước là 
Sông. Sông Linh Nham trong tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già được nhìn nhận là một 
dòng sông thiêng, khi thì “lầm lì chuyển động” [8, tr.26], lúc lại “rì rầm ai oán” [8, tr.39]. 
Nhưng cũng có khi được miêu tả “đục ngầu như mắt trâu điên”. Sông thiêng gọi ai là 
người ấy chết. Ở đây, chúng ta có thể thấy sự liên hệ giữa nước với cái chết. Con trai cả 
lão Liêm chết đuối dưới ao, Quân mất tích được thầy bói phán gần nước, Tuyết cũng trôi 
đi trong cái hả hê, sảng khoái của dòng nước ác. Dường như nó hiểu được những sự việc 
đang xảy ra ở làng Phan, nơi con người sinh ra chỉ là để dằn hắt, đè nén, bức bách gầm 
ghè, thôn tính, ăn thịt lẫn nhau. Câu chuyện chủ yếu ở làng Phan xoay quanh đại gia đình 
Trường hấp và nhân vật ông Trình. Tất cả đều hướng tới một kho báu bí ẩn sẽ được mở 
khi sao chổi, con Nghê và ba cái chết đến cùng một lúc. Nhưng cuối cùng những điều họ 
theo đuổi không có thực. Suốt cuộc đời họ đã thực hiện những cuộc hành trình cuối cuối 
cùng chỉ để kết liễu, thanh toán, trả nợ nhau. Vào thời khắc ấy, dòng sông Linh Nham 
dường như linh cảm được những những điều hệ trọng sắp xảy ra, nó cũng mang những 
cảm xúc như những người trong cuộc: “Gió mạnh dần sau đó thốc tháo, cây cối ngã rạp 
xuống. Bầu trời nghiêng bên nọ ngảy bên kia. Nước sông Linh Nham bốc khói ngùn ngụt, 
sóng vỗ vào chân cầu oàm oạp” [8, tr.268]. Con Nghê chết, cuộc tử chiến của hai cha con 
lão Liêm và ông Trình bắt đầu. “Dòng Linh Nham chuyển thành đỏ hồng, gió vẫn ầm ầm 
nổi lên từng đợt” [8[8], tr.271]. Tiểu thuyết khắc họa cuộc đời của những con người có 
cảnh sống éo le, đồng thời đặt ra câu hỏi dường như không bao giờ cũ về sự tồn tại, cái 
hữu hạn của đời người trong thời gian vô hạn. Văn phong đậm chất Việt, nhưng không 
thiếu những phẩm chất chung của các tác phẩm văn chương thế giới, kết hợp tài tình giữa 
cái huyền ảo hoang đường và hiện thực trần trụi, Những đứa trẻ chết già thực sự là một 
BIỂU TƯỢNG NƯỚC TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2000 11 
tác phẩm xuất sắc trong dòng tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 
Biểu tượng nước còn xuất hiện trong rất nhiều tiểu thuyết sau năm 2000 như Thoạt kì 
thủy (Nguyễn Bình Phương), một cuốn tiểu thuyết được xem là giàu biểu tượng nhất. Đặc 
biệt Nước ở đó cũng đã thể hiện cao nhất, rõ nhất sứ mệnh, sức mạnh vỗ về, an ủi, tái sinh 
sự sống cho vạn vật, muôn loài. Đồng thời cũng mang ý nghĩa đấu tranh và hủy diệt. Biểu 
tượng Nước cũng tràn đầy trong những trang tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thị Hảo. Đó 
là dòng sông, chứng nhân cho tình yêu của đôi trai tài gái sắc Nhuệ Anh và Từ Lộ. Nhưng 
nó cũng biến thành sự hủy diệt khi cuốn trôi Nhuệ Anh đang tràn đầy đau khổ xuống đáy 
vực. Đồng thời lại mang ý nghĩa tái sinh khi để chàng Cá Bơn cứu sống. Là những giọt 
nước mắt của sư bà Nhuệ Anh đã làm cho vua Thần Tông thức tỉnh. Trong Cõi người 
rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái, biểu tượng Nước còn xuất hiện dưới dạng biến thể 
Biển và nước mắt. Biển mang ý nghĩa trừng phạt cái ác và nước mắt góp phần gột rửa, 
thanh tẩy tất cả những thù hận của Mai Trừng. Kết thúc hành trình hai mươi sáu năm đi 
trừng phạt cái ác, Mai Trừng đã quỳ khóc trước mộ cha mẹ. Những giọt nước mắt rửa trôi 
quá khứ để bắt đầu được làm một con người bình thường, được sống và được yêu. 
3. KẾT LUẬN 
Có thể thấy, biểu tượng Nước trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 mang trong lòng nó 
nhiều biến thể cùng nhiều tầng ý nghĩa khác nhau về sự tái sinh, thanh tẩy và hủy diệt. 
Mỗi biến thể ấy đến lượt nó, vừa lưu giữ những cơ tầng văn hoá của dân tộc, lại vừa có 
lại có khả năng trở thành những biểu tượng và những cổ mẫu văn chương mới, mang 
những hàm nghĩa mới của văn hoá đương đại, để sự tái sinh của nó mở đến vô tận, luôn 
mời gọi những giải mã từ bạn đọc. Các nhà nghiên cứu gọi đó là hệ hình cổ mẫu Nước. 
Những cổ mẫu con này vừa dung chứa những nét chung của cổ mẫu mẹ Nước trong văn 
hóa truyền thống Việt Nam và nhận loại vừa hình thành những nét riêng của văn học sau 
1986 và văn hóa đương đại. Cùng với những biểu tượng như Đất, Lửa, Trăng biểu 
tượng Nước trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 đã khẳng định được vị trí của mình 
trong đời sống cũng như trong văn học, từ dân gian cho đến hiện đại. Nó mở ra khả năng 
vô tận trong việc khám phá, nhận thức về con người và thế giới xung quanh. Đồng thời 
cổ mẫu Nước cũng cho thấy khả năng kiến tạo hiện thực mới của nó, khả năng lưu giữ và 
sáng tạo văn hoá độc đáo mà những giá trị khác khó có thể sánh kịp. “Nghệ sĩ không thể 
khép kín tác phẩm hay đính nó vào một phẩm tính cụ thể nào, mà tác phẩm luôn tiếp diễn 
trong đời sống, vừa giống vừa khác với chính nó, tùy thuộc vào những kiến giải trong đọc 
hiểu văn bản có đuổi bắt kịp tư duy sáng tạo của nhà văn hay không” [13; tr 60]. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Jean Chavalier - Alain Gheerbrant (1997). Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB 
Đà Nẵng, Trường Viết văn Nguyễn Du. 
[2] Nguyễn Đình Chính (2008). Đêm thánh nhân, NXB Văn học, Hà Nội. 
[3] Phạm Thị Hoài (2006). Thiên sứ, nguồn: 
q3m3237n2n. 
12 PHAN THÚY HẰNG 
[4] Đỗ Đức Hiểu (1994). Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học Xã hội, Mũi Cà Mau. 
[5] Dương Hướng (2015). Bến Không Chồng, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 
[6] Bảo Ninh (2007). Nỗi buồn chiến tranh, NXB Văn học, Hà Nội. 
[7] Nhiều tác giả (2005). Từ điển văn học, NXB Thế giới, Hà Nội. 
[8] Nguyễn Bình Phương (2013). Những đứa trẻ chết già, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 
[9] Nguyễn Bình Phương (2013). Người đi vắng, NXB Tổng hợp, TP Hồ Chí Minh. 
[10] Nhiều tác giả (2009). Văn học Việt Nam thế kỉ XX (Tiểu thuyết 1975 - 2000), Quyển 
Một, Tập XV). Lời nguyền hai trăm năm, NXB Văn học, Hà Nội. 
[11] Nguyễn Thị Thanh Xuân (2009). Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam, nguồn: 
 12/5/2017. 
[12] Hoang Thi Hue, Hoang Thi Hong Ha (2006). Acculturation in Vietnamese 
Contemporary Literature, International Journal of Communication and Media Studies, 
USA, Vol. 6, Issue 3, June 2016. 
[13] Hoàng Thị Huế (2013). Biểu tượng mang tâm thức Mẫu trong Đội gạo lên chùa của 
Nguyễn Xuân Khánh, Tạp chí Lý luận Phê bình văn học, nghệ thuật, Bộ Văn hóa - 
Thông tin và Du lịch, Hà Nội, 1/2013, tr. 54-60. 
Title: THE SYMBOL “WATER” IN VIETNAMESE NOVELS FROM 1986 TO 2000 
Abstract: For literature, there are many different ways to explain the work, in which clarifying 
the meaning of the symbols in the work is an interesting direction. Surveying Vietnamese novels 
from 1986 to 2000, we find that there are many symbols in which the water symbol contains a lot 
of different meanings about people and life. In this article, the water symbol is meant to purify 
and alleviate human pain, the symbol of rebirth, and it is also the symbol of destruction and 
destruction. With many different variations, water symbol also hold the cultural foundations of 
the nation, as well as the ability to become new symbols and prototypes. Contains the new 
meanings of contemporary culture. 
Keywords: Symbol, symbol “water”, Vietnam novels. 

File đính kèm:

  • pdfbieu_tuong_nuoc_trong_tieu_thuyet_viet_nam_tu_1986_den_2000.pdf