Bài giảng Bệnh lý thú y - Chương 2: Rối loạn thân nhiệt - Nguyễn Hữu Nam

I. ĐẠI CƯƠNG VỀ CÂN BẰNG THÂN NHIỆT

• Sự ổn định thân nhiệt là điều kiện vô cùng quan trọng

cho sự hoạt động bình thường của các men tham gia

vào quá trình chuyển hoá tạo ra năng lượng trong cơ

thể động vật.

• Động vật máu lạnh - biến nhiệt: Động vật không

xương sống và có xương sống cấp thấp: cá, ếch, bò

sát v.v.

• - Thân nhiệt hoàn toàn phụ thuộc vào sự thay đổi của

nhiệt độ môi trường, chúng không có khả năng điều

hoà nhiệt.

• Động vật máu nóng - đẳng nhiệt: chim và ĐV có vú -

Thân nhiệt tương đối ổn định và độc lập với nhiệt độ

của môi trường.

pdf8 trang | Chuyên mục: Giải Phẫu Thú Y | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 342 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt nội dung Bài giảng Bệnh lý thú y - Chương 2: Rối loạn thân nhiệt - Nguyễn Hữu Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ạ xuống cho đến khi cân bằng lúc đầu được 
lặp lại và thân nhiệt trở lại bình thường. Cũng cần chú
ý là có thể có những bệnh súc thân nhiệt giảm đột 
ngột do đái nhiều, ra mồ hôi nhiều làm mất nước, 
huyết áp hạ gây trụy tim mạch lúc hết sốt.
• 3.4. Cơ chế phát sốt
• Sốt là do rối loạn chức phận của TTĐHN làm thay đổi 
mối tương quan giữa sản nhiệt và thải nhiệt. 
• Dưới ảnh hưởng của chất gây sốt, trung tâm kém 
nhạy cảm đối với các KT nóng; Ngược lại, tăng nhạy 
cảm với các KT lạnh. Nhiệt độ của máu tỏ ra “quá
lạnh” đối với TTĐHN, do đó gây phản ứng làm tăng 
SN và giảm TN, thân nhiệt tăng lên - sốt tăng. 
• Khi sốt ở mức độ cao, nhiệt độ cao của cơ thể
sẽ làm cho phản ứng của TTĐHN đối với lạnh 
giảm xuống có tác dụng ức chế SN và tăng TN 
– sốt đứng.
• Khi chất gây sốt hết tác dụng, TTĐHN cảm thấy 
quá nóng so với nhiệt độ của môi trường quanh 
nó, nên phản ứng làm tăng TN và thân nhiệt 
dần dần giảm xuống. 
• Cần chú ý, trong khi sốt, bệnh súc vẫn còn khả 
năng điều nhiệt. Khi nhiệt độ bên ngoài thay đổi 
hay khi vận động, phản ứng điều nhiệt ở cơ thể
bệnh gần như cơ thể lành. Riêng đối với bệnh 
sốt nhiễm khuẩn nặng, cơ thể suy nhược, thì
sức đề kháng đối với lạnh và nóng giảm xuống. 
Điều đó chứng tỏ rằng sự tăng thân nhiệt trong 
quá trình sốt mang tính chất chủ động.
• Vai trò của vỏ não trong quá trình sốt
• Phản ứng sốt được quyết định bởi các trung 
tâm dưới vỏ là chủ yếu. Nhưng quá trình rối 
loạn điều nhiệt chịu ảnh hưởng sâu sắc của vỏ
não. Bình thường vỏ não điều hoà hoạt động 
của các trung tâm dưới vỏ theo hình thức kìm 
hãm các hoạt động đó – trong đó có trung tâm 
điều hoà nhiệt. Trên thực nghiệm thấy rằng, ở
súc vật phá vỏ não, phản ứng sốt phát sinh rất 
mạnh. Đem tiêm cùng một liều chất gây sốt cho 
ba thỏ tương tự như nhau về khối lượng và
trạng thái cơ thể nhưng trước đó, một thỏ được 
tiêm cafein - sốt mạnh nhất, và sốt chậm nhất 
là thỏ uống bromua, vì chất này ức chế toàn bộ
thần kinh kể cả trung tâm điều hoà nhiệt.
• Trên lâm sàng, loại hình thần kinh ở trạng thái 
ức chế (lầm lì, u sầu) thì phản ứng sốt yếu. 
Ngược lại, loại hình thần kinh hưng phấn (thể
hung dữ) thì phản ứng sốt rất mạnh hoặc ở 
động vật non do vỏ não phát triển chưa đầy đủ
nên sốt cao và dễ có co giật và hôn mê.
• Vai trò nội tiết
• Nếu cắt bỏ một số tuyến như hạ não, tuyến 
giáp, v.v... thì thấy phản ứng sốt giảm. Ngược 
lại, nếu tiêm adrenalin, noradrenalin, lại có thể 
gây được cơn sốt. điều đó chứng tỏ nội tiết có
tham gia vào phản ứng sốt.
• 3.5. Các kiểu sốt
• Theo cường độ cơn sốt người ta chia ra:
• Sốt nhẹ khi thân nhiệt tăng ít hơn 10C
• Sốt vừa tăng 1 - 20C
• Sốt nặng tăng 2 - 30C
• Sốt rất nặng tăng trên 30C
• Theo đường biểu diễn nhiệt độ, lại chia ra bốn loại:
• - Sốt liên tục: nhiệt độ giữ ở mức cao trong một thời 
gian, sáng chiều thay đổi không quá 10 C, thường gặp 
trong viêm phổi, phó thương hàn bê.
• - Sốt dao động: nhiệt độ sáng chiều chênh nhau quá
10C, gặp trong nhiễm khuẩn huyết, trong lao phổi, 
viêm mủ, giai đoạn cuối của thương hàn.
• - Sốt cách quãng: có sự luân phiên giữa cơn 
sốt và thời kỳ không sốt, gặp trong các bệnh ký 
sinh trùng đường máu, sốt rét ở người.
• - Sốt hồi quy: khác loại cách quãng ở chỗ
khoảng thời gian không sốt kéo dài hơn, gặp 
trong bệnh xoắn khuẩn.
• Ngoài ra còn có loại sốt không điển hình, là
dạng sốt không tuân theo quy luật gặp trong 
bệnh tỵ thư ngựa.
• 3.6. Rối loạn chuyển hoá trong sốt
• Tăng chuyển hoá trong sốt xảy ra do đặc tính 
của các chất gây sốt, do tăng thân nhiệt và do 
tình trạng đói của cơ thể. Rối loạn chuyển hoá
trong sốt tuy biểu hiện ở từng loại bệnh, từng 
cá thể có khác nhau, song nói chung có một số
quy luật diễn biến nhất định giống nhau.
• Rối loạn chuyển hoá năng lượng
• Trong đa số trường hợp sốt, đều có tăng 
chuyển hoá, do đó hấp thụ oxy tăng. Khả năng 
này tăng mạnh nhất ở giai đoạn đầu và giảm 
dần ở các giai đoạn sau của sốt.
• Rối loạn chuyển hoá Gluxit.
• Tăng chuyển hoá gluxit, lượng dự trữ glycogen 
giảm, glucoza huyết tăng, có thể có glucoza 
niệu, lượng axit lactic tăng.
• Rối loạn chuyển hoá Lipit.
• Chuyển hoá lypit chỉ tăng mạnh trong sốt cao 
và kéo dài, lượng dự trữ glycogen giảm làm 
cho lipit huyết tăng, xuất hiện thể xêton trong 
máu.
• Rối loạn chuyển hoá protit .
• Chuyển hoá protit tăng mạnh trong sốt do 
nhiễm độc, nhiễm khuẩn và đói ăn của cơ thể, 
lượng nitơ đào thải qua nước tiểu tăng. 
• Chính vì vậy trong các trường hợp sốt cao và
kéo dài, cần phải cung cấp nhiều thức ăn dễ
tiêu có nhiều chất bổ. 
• Nhất là phải tiêm huyết thanh ngọt ưu trương, 
nhằm hạn chế quá trình tự thực protit của cơ 
thể khi nguồn dự trữ năng lượng của cơ thể
giảm sút.
• Rối loạn chuyển hoá vitamin
• Do tăng chuyển hoá nói chung nên nhu cầu 
vitamin cũng tăng, nhất là vitamin C và B1. 
• Khi sốt, cần thiết phải cung cấp nhiều vitamin 
loại này cho bệnh súc.
• Rối loạn chuyển hoá nước và muối.
• Trong giai đoạn đầu, chuyển hoá nước và muối hơi 
tăng. Sang giai đoạn hai nước bị giữ lại trong cơ thể, 
tiểu tiện ít. Nguyên nhân của hiện tượng này là do 
tăng nội tiết có tác dụng giữ muối và nước, quan trọng 
nhất là aldosteron của thượng thận và ADH của thuỳ
sau tuyến yên. 
• Ngoài ra còn do tăng các sản phẩm của rối loạn 
chuyển hoá và do chức phận lọc của cầu thận giảm. 
Sang giai đoạn ba, sự bài tiết nước tiểu lại tăng, bài 
tiết mồ hôi tăng, làm tăng quá trình thải nhiệt.
• Về muối thấy bài tiết natri clorua giảm, bài tiết kali 
sulfat và phosphat tăng lên, nhất là trong giai đoạn sốt 
tăng. Khi sốt lui, ngược lại, vì tăng đào thải natri nên 
bệnh súc có thể bị nhiễm axit do mất nhiều muối kiềm
• 3.7. Rối loạn chức năng các cơ quan trong 
sốt
• Do bị nhiễm độc tố vi khuẩn và các sản phẩm 
rối loạn chuyển hoá, do thân nhiệt cao mà gây 
ra rối loạn của nhiều chức phận trong cơ thể.
• Rối loạn thần kinh.
• Trong sốt, thần kinh ở trạng thái hưng phấn rồi 
ức chế, bệnh súc thường khó chịu, không yên 
tĩnh , ủ rũ, mệt mỏi, nếu nặng hơn có thể bị co 
giật.
• Rối loạn tuần hoàn
• Khi sốt, tim đập nhanh; Nguyên nhân gây tăng 
tuần hoàn có thể do thần kinh giao cảm bị hưng 
phấn, do nhiệt độ cao tác động trực tiếp vào 
thần kinh tự động của tim và do nhu cầu oxy 
của tăng chuyển hoá. 
• Tăng hoạt động của tim còn phụ thuộc vào đặc tính 
của các yếu tố nhiễm khuẩn, nhiễm độc. 
• Như trong viêm màng não, thân nhiệt tăng cao nhưng 
mạch lại chậm, ngược lại trong sốt thương hàn, mạch 
tăng nhanh nhưng thân nhiệt lại tăng ít. 
• Do độc tố của vi khuẩn ức chế hệ thần kinh, trong dó 
trung khu điều hoà nhiệt.
• Rối loạn tuần hoàn còn thể hiện ở sự thay đổi huyết 
áp. Trong giai đoạn đầu huyết áp có thể hơi tăng do 
co mạch quản ngoại vi. 
• Sang giai đoạn 2 và nhất là giai đoạn 3, huyết áp hạ
do giãn mạch quản ngoại vi, đôi khi giảm quá mạnh 
gây truỵ tim mạch.
• Rối loạn hô hấp
• Rối loạn hô hấp trong sốt thường diễn ra song song 
với rối loạn tuần hoàn. nguyên nhân tăng hô hấp là do 
tăng nhiệt độ, tăng nhu cầu oxy và tăng axit của máu. 
Tăng hô hấp có tác dụng điều hoà thân nhiệt.
• Rối loạn tiêu hoá
• Rối loạn tiêu hoá thường đến sớm với các triệu chứng 
chán ăn, giảm tiết dịch tiêu hoá, trắng lưỡi, khô miệng, 
tiêu hoá và hấp thu giảm, giảm nhu động ruột gây táo 
bón. 
• Tăng quá trình lên men trong ruột gây chướng hơi và
nhiễm độc. Vì vậy khi sốt cần cho con vật ăn các thức 
ăn dễ tiêu hoá. 
• Nguyên nhân gây giảm nhu động ruột là do rối loạn 
của thần kinh giao cảm và do rối loạn chuyển hoá, 
thiếu năng lượng cung cấp cho hoạt động của cơ. 
• Rối loạn chức phận của thận
• Do tác động của độc tố vi khuẩn và do rối loạn tuần 
hoàn nên hoạt động của thận cũng bị ảnh hưởng; giai 
đoạn đầu tăng bài tiết nước tiểu, sang giai đoạn 2 sẽ
giảm bài tiết nước tiểu do tích nước ở mô bào, giai 
đoạn hạ sốt lại tăng bài tiết nước tiểu. 
• Chất lượng nước tiểu cũng thay đổi, tăng lượng 
albumin, tăng amoniac và nhiều chất khác trong nước 
tiểu.
• Rối loạn nội tiết
• Trong sốt, hoạt động nội tiết tăng, đặc biệt là hạ não 
và thượng thận. 
• Sự tăng tiết ACTH và cortison trong máu có tác dụng 
chống viêm, chống dị ứng. 
• Tăng nội tiết còn có tác dụng tăng giữ nước và muối 
trong cơ thể.
• Tăng chức phận gan
• Trong sốt, chức phận chuyển hoá tại gan tăng lên rất 
nhiều. 
• Theo một số tác giả, có thể tăng tới 30 – 40%, 
phospholipit trong gan cũng được đổi mới nhanh, 
chuyển hoá năng lượng tăng lên, tăng chức năng 
chống độc, tăng khả năng tạo urê, tạo fibrinogen, 
chuyển hoá nitơ..., tăng chức năng gan có tác dụng 
tăng sức đề kháng chung của cơ thể.
• Tăng chức phận miễn dịch 
• Khi bị sốt, thành phần máu có nhiều biến đổi, đặc biệt 
là sự thay đổi về bạch cầu và kháng thể. Lượng bạch 
cầu tăng, khả năng thực bào của nó tăng lên, tổ chức 
võng mạc nội mô cũng tăng sinh và phì đại. 
• Lượng kháng thể và bổ thể trong máu đều tăng.
• 3.8. ý nghĩa của phản ứng sốt
• Về cơ bản sốt là một phản ứng bảo vệ của cơ 
thể, ảnh hưởng tốt trong diễn biến của quá
trình nhiễm khuẩn, vì sốt có tác dụng:
• Tăng số lượng bạch cầu và khả năng thực bào 
của bạch cầu.
• Tăng sản xuất kháng thể và bổ thể.
• Tăng khả năng chống độc và khử độc của gan.
• Tăng chức phận tạo máu.
• Tăng khả năng phân huỷ vi khuẩn.
• Tăng các chức năng sinh lý.
• Tăng sức đề kháng chung.
• Tăng khả năng phục hồi sức khoẻ.
• Tác hại của sốt: Khi sốt quá cao, chức năng 
của các cơ quan bị rối loạn nghiêm trọng, cơ 
thể không thể kiểm soát, điều chỉnh được tạo ra 
vòng xoắn bệnh lý làm nghiêm trọng các triệu 
chứng bệnh, có thể gây hôn mê và gây chết.
• Trong thực hành thú y, khi điều trị bệnh chúng 
ta cần tôn trọng phản ứng sốt, nhất là trong các 
trường hợp sốt nhẹ. 
• Chỉ nên dùng thuốc hạ sốt trong những trường 
hợp cần thiết. Mặt khác, có thể tạo ra phản ứng 
sốt nhân tạo để điều trị một số bệnh mãn tính, 
như viêm khớp, loét dạ dày... 
Thank you for your attention!

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_benh_ly_thu_y_chuong_2_roi_loan_than_nhiet_nguyen.pdf