Bài giảng Bệnh lý thú y - Chương 1: Khái niệm cơ bản - Nguyễn Hữu Nam

NộI DUNG

• Bệnh lý học là môn học nghiên cứu về tổn

thương. Nó bao gồm cả khoa học đại cương

và thực hành lâm sàng. Nghiên cứu cả thay

đổi về cấu trúc cũng như chức năng của tế

bào, mô và các cơ quan bị bệnh.

• Bằng cách sử dụng các kỹ nghệ phân tử, vi

sinh vật học, miễn dịch học và hình thái học,

bệnh lý học giải thích tại sao và do đâu mà có

những triệu chứng ở cơ thể bệnh nhằm cung

cấp các thông tin cơ sở cho việc chăm sóc

lâm sàng và điều trị bệnh

pdf12 trang | Chuyên mục: Giải Phẫu Thú Y | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 469 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Bài giảng Bệnh lý thú y - Chương 1: Khái niệm cơ bản - Nguyễn Hữu Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ó
thì sẽ phát sinh bệnh
• Yếu tố di truyền cũng có thế là điều kiện để cho bệnh 
phát sinh.
• + Yếu tố thể tạng: thể tạng có thể được coi như là
tổng hợp các đặc điểm chức năng và hình thái của cơ 
thể. Những đặc điểm này được hình thành trên cơ sở
tính di truyền và quyết định tính phản ứng của cơ thể 
đối với tác động bên ngoài trong quá trình sống. 
Trước một yếu tố gây bệnh những cơ thể có thể tạng 
khác nhau sẽ có phản ứng khác nhau.
• CÁC LOẠI MẦM BỆNH
• Mầm bệnh là các tác nhân gây bệnh sống và 
có thể nhân lên trong cơ thể bệnh.
• Thí dụ: virus, vi khuẩn, vi nấm, đơn bào và 
các loại nội ngoại ký sinh 
• III. SINH BỆNH HỌC (Pathogenesis)
• Sinh bệnh học là môn khoa học nghiên cứu 
những quy luật cơ bản của sự phát sinh, phát 
triển, diễn biến và kết thúc của một quá trình 
bệnh lý hay còn gọi là cơ chế sinh bệnh. 
• Nắm được cơ chế sinh bệnh là yêu cầu cơ 
bản trong công tác phòng trị bệnh, trên cơ sở 
đó có thể ngăn chặn sớm những diễn biến 
xấu, hạn chế được tác hại của bệnh.
• 3.1. Vai trò của nguyên nhân bệnh 
• - NNB đóng vai trò quan trọng trong diễn biến của 
bệnh. Tuỳ theo cường độ, vị trí và thời gian tác động 
mà diễn biến của bệnh có thể khác nhau.
• - Khi cường độ của NNB lớn thì bệnh diễn biến cấp 
tính, nhanh và nguy hiểm, còn khi cường độ nhỏ thì
bệnh diễn biến nhẹ, ít nguy hiểm. 
• - Thời gian tác dụng của NNB phụ thuộc vào cường 
độ của NNB và sức đề kháng của cơ thể.
• - Vị trí tác dụng của NNB cũng có ảnh hưởng rõ rệt 
đến quá trình phát triển của bệnh, khi NNB tác động ở
những nơi có ái lực với nó thì bệnh diễn biến nặng 
hơn những nơi khác, ví dụ: VK lao có ái lực với phổi, 
VK Brucella có ái lực với màng nhung nhau thai...
• Đường lây lan của NNB: đường lây lan thường phụ
thuộc vào tính chất của NNB, thông thường NNB lây 
lan theo 3 đường chính là:
• + Lan theo tổ chức, từ nơi phát bệnh lan ra xung 
quanh do tiếp xúc.
• + Lan theo thể dịch, các loại VK, virus và độc tố 
thường theo máu và dịch lympho lan rộng đến các cơ 
quan khác nhau.
• + Lan theo thần kinh, một số loại virus như virus 
dại, độc tố uốn ván có thể lan theo dây thần kinh. 
Trong thực tế khi bệnh phát sinh, NNB có thể đồng 
thời lan theo nhiều đường khác nhau, song tuỳ từng 
loại NNB có những đường lây lan chính và đường lây 
lan phụ, dựa vào đặc tính chúng ta có thể đề ra các 
biện pháp ngăn chặn kịp thời.
3.2.Quan hệ giữa cục bộ và toàn thân trong quá
trình sinh bệnh
• - Cơ thể là một khối thống nhất, các cơ quan, mô 
bào có sự liên hệ chặt chẽ với nhau và chịu sự điều 
tiết chung của hệ TKTW, vì vậy các QTBL dù xảy ở 
cơ quan nào cũng phụ thuộc vào trạng thái chung 
của của cơ thể và ngược lại, thông qua cung phản 
xạ nó ảnh hưởng tới toàn thân.
• - Ảnh hưởng của toàn thân tới cục bộ: toàn thân 
khoẻ mạnh thì sức đề kháng tại chỗ cũng tốt, yếu tố
gây bệnh khó xâm nhập và khi đã xâm nhập thì việc 
loại trừ cũng rất nhanh chóng. Như vậy chế độ dinh 
dưỡng tốt sẽ đảm bảo sức khoẻ cho cơ thể.
• - Ảnh hưởng của cục bộ tới toàn thân: bất kỳ một 
tổn thương nào ở cục bộ cũng ảnh hưởng tới toàn 
thân, các kích thích đau tác động tới thần kinh, các 
độc tố ngấm vào máu rồi tác động tới chức năng 
của các cơ quan trong cơ thể.
• 3.3. Vòng xoắn bệnh lý
• Trong QTPT, bệnh thường diễn biến qua nhiều giai 
đoạn, mỗi giai đoạn như vậy được gọi là một khâu; 
các khâu này thường kế tiếp nhau theo một trình tự
nhất định và có liên quan mật thiết với nhau. 
• Trong một số trường hợp, những khâu sau tác động 
ngược trở lại khâu trước làm cho tình trạng bệnh lý 
nặng thêm, sự tác động như vậy gọi là vòng xoắn 
bệnh lý.
• Thí dụ: trong bệnh lợn đóng đấu mãn tính; vi khuẩn 
lợn đóng dấu gây viêm nội tâm mạc, van tim bị loét 
sùi, do đó ảnh hưởng đến tuần hoàn chung gây thiếu 
oxy; từ thiếu oxy lại gây rối loạn chuyển hoá các chất 
rồi tác động trở lại gây phì đại tim, gây suy tim; khi suy 
tim lại càng thiếu oxy, lặp lại thành một vòng tròn 
nhưng với cung bậc lớn hơn, cứ như vậy gọi là vòng 
xoắn bệnh lý.
3.4. Các giai đoạn phát triển của bệnh
• Trong QTPT của bệnh, cơ thể có những biến 
đổi khác với khi ở trạng thái bình thường. Các 
biến đổi đó gọi là triệu chứng. 
• TC của bệnh thì muôn màu muôn vẻ, nó bao 
gồm những biến đổi về chức năng của các hệ
thống như hô hấp, tuần hoàn..., biến đổi về
chuyển hoá vật chất, biến đổi về thân nhiệt, 
đến những thay đổi về thành phần của máu, 
nước tiểu và cả thay đổi về hình thái của một 
số cơ quan...
• Sự biểu hiện của TC, cường độ thể hiện của 
chúng thường thay đổi trong từng giai đoạn 
của bệnh, trong mỗi bệnh và trong các cá thể
khác nhau. 
• Nhìn chung, QTPT của bệnh không những diễn 
biến theo những quy luật nhất định mà còn có
tính giai đoạn, người ta thường chia ra 4 thời 
kỳ cơ bản trong quá trình phát triển của bệnh. 
Sự phân chia này có ý nghĩa quan trọng trong 
nghiên cứu và giúp cho quá trình chẩn trị bệnh 
dễ dàng hơn. 
• Tuy nhiên, việc phân chia các thời kỳ cũng chỉ
là tương đối trong quá trình phát triển liên tục 
của bệnh.
• Thời kỳ nung bệnh
• Thời kỳ nung bệnh hay còn gọi là thời kỳ ủ
bệnh, bắt đầu từ khi tác nhân gây bệnh xâm 
nhập vào cơ thể và bắt đầu phát huy tác dụng 
đến khi cơ thể có những triệu chứng đầu tiên. 
Ở thời kỳ này khả năng thích ứng của cơ thể
còn mạnh, nên các rối loạn chưa thể hiện. Thời 
kỳ này dài hay ngắn là phụ thuộc vào điều kiện 
bên ngoài, trạng thái cơ thể, đặc tính của NNB 
và vị trí tác động của NNB, thí dụ: Nhiệt thán 
nung bệnh 1 - 5 ngày; Uốn ván 7 - 15 ngày, Dại 
1 - 3 tháng,...
• Thời kỳ tiền phát
• TKTP bắt đầu từ khi con vật có TC đầu tiên đến khi 
con vật xuất hiện những TC điển hình. 
• Ở giai đoạn này NNB tác động mạnh, khả năng thích 
ứng của cơ thể giảm, các rối loạn chức năng đã rõ rệt 
biểu hiện thành các TC chủ yếu của bệnh.
• Nhờ có các TC này chúng ta có thể chẩn đoán sơ bộ
và đưa ra phác đồ điều trị kịp thời. 
• Thời kỳ toàn phát
• Thời kỳ này bắt đầu từ khi con vật có những TC rõ rệt 
đến khi bệnh chuyển biến đặc biệt. 
• Ở thời kỳ này các rối loạn chức năng biểu hiện rõ 
ràng nhất, điển hình nhất, sự rối loạn trao đổi chất và
TTBL nặng nề. 
• Dựa trên các TC và bệnh tích điển hình nhất chúng ta 
có thể đưa ra chẩn đoán lâm sàng xác định để phòng 
chống bệnh cho bầy đàn.
• Thời kỳ kết thúc
Thời kỳ này dài hay ngắn chủ yếu phụ thuộc vào từng 
loại bệnh và trạng thái cơ thể; thường có các dạng kết 
thúc bệnh như sau:
• + Khỏi hoàn toàn: các NNB hết tác dụng, bệnh dần 
dần thuyên giảm, cường độ các TC giảm dần rồi mất 
hết, chức năng các cơ quan trở lại bình thường, khả 
năng lao động và tính năng sản xuất được phục hồi 
hoàn toàn, với một số bệnh truyền nhiễm phát sinh 
trạng thái miễn dịch tốt. 
• + Khỏi không hoàn toàn:
Các NNB dã ngừng hoạt động, các TC chủ yếu đã đã 
hết, song về cấu tạo và chức năng thì chưa được khôi 
phục hoàn toàn (Thí dụ: trâu bò bị viêm khớp đã điều 
trị khỏi nhưng bị xơ cứng khớp, bò bị viêm vú đã điều 
trị khỏi nhưng lại mất khả năng tiết sữa. 
• Một số trường hợp lành bệnh chỉ là biểu hiện bề
ngoài, nhưng NNB chưa bị tiêu diệt hoàn toàn mà khu 
trú ở cục bộ một số cơ quan nào đó trong cơ thể, khi 
cơ thể giảm sức đề kháng thì mầm bệnh trỗi dậy, tăng 
độc lực gây bệnh tái phát. 
• Đây cũng chính là nguồn lây bệnh nguy hiểm đối với 
các bệnh truyền nhiễm.
• + Chết: Chết là giai đoạn cuối cùng của sự sống, khi 
cơ thể không thể thích nghi được với biến đổi của 
điều kiện tồn tại. 
• Dấu hiệu của chết là ngừng tim, ngừng hô hấp. 
• Quá trình chết bao gồm các pha như sau:
• Thời kỳ ngưng cuối cùng: tim và hô hấp ngừng tạm 
thời khoảng 0,5 đến 1,5 phút, mất phản xạ mắt, đồng 
tử dãn rộng, vỏ não bị ức chế, các hoạt động sống 
đều bị rối loạn.
Thời kỳ hấp hối: xuất hiện hô hấp trở lại – thở ngáp 
cá, tim đập yếu, phản xạ có thể xuất hiện trong thời kỳ
này, hoạt động của tuỷ sống ở mức tối đa để duy trì
các chức năng sinh lý (< 30 phút).
• Chết lâm sàng: hoạt động tim, phổi đều ngừng, thần 
kinh trung ương bị ức chế hoàn toàn. 
• Thời gian chết lâm sàng kéo dài 5 – 6 phút, khi tế bào 
não chưa bị tổn thương thì có thể hồi phục được.
• Chết sinh vật: hoạt động tim, phổi đều ngừng hẳn, tế
bào não bị tổn thương, mọi khả năng hồi phục không 
còn nữa. 
• Sau khi chết sinh vật các mô lần lượt chết theo, tuỳ
thuộc vào khả năng chịu đựng với sự thiếu oxy của 
từng loại mô; mô nào trong khi sống cần nhiều oxy thì
sẽ chết trước, mô nào cần ít oxy khi sống thì sẽ chết 
sau. 
• 3.5. Cơ chế phục hồi sức khoẻ
• Sau một QTBL thì cơ thể có thể hồi phục sức khoẻ. 
Sức khoẻ chỉ có thể phục hồi khi NNB ngừng tác 
động, trạng thái cơ thể trở lại bình thường, tính hoàn 
chỉnh và giá trị kinh tế của nó được phục hồi. 
• Chức năng thích ứng phòng ngự: Trong cơ chế
phục hồi sức khoẻ, chức năng thích ứng phòng ngự
có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bao gồm: 
• - Sản sinh kháng thể
• - Phản ứng thực bào
• - Chức năng giải độc của gan
• - Đào thải các nhân tố gây bệnh, các độc tố ra ngoài 
cơ thể (nôn mửa, phân, nước tiểu, mồ hôi, niêm 
dịch...)
• - Tăng sinh tế bào.
Chức năng bù đắp: đây là một hình thức 
phòng ngự phổ biến rất quan trọng trong quá
trình hồi phục sức khoẻ. 
Trong thực nghiệm nếu cắt bỏ hoàn toàn tuyến 
thượng thận thì con vật sẽ chết nhưng nếu để
lại 1/10 thể tích của tuyến thì con vật vẫn sống; 
hoặc nếu cắt bỏ hoàn toàn tuyến giáp sẽ phát 
sinh bệnh phù, song nếu chỉ để lại 0,2% thể
tích của tuyến đó thì con vật vẫn bình thường. 
Trong thực tế nếu cắt bỏ một bên phổi, một bên 
thận hoặc một phần lớn gan thì con vật vẫn có
thể sống bình thường.
Trạng thái ức chế: Trong cơ chế hồi phục sức 
khoẻ, hiện tượng ức chế có mức độ của vỏ não 
là một phản ứng phòng ngự chống lại những 
kích thích quá mạnh hoặc kéo dài, tránh cho vỏ
não khỏi bị tiêu hao quá độ.
 Đây cũng chính là cơ sở khoa học trong các 
thủ thuật điều trị bệnh sử dụng phương pháp 
gây tê, gây mê, dùng thuốc ngủ, thuốc an 
thần...

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_benh_ly_thu_y_chuong_1_khai_niem_co_ban_nguyen_huu.pdf