Ảnh hưởng của các nhân tố tài chính đến việc lựa chọn chính sách kế toán để điều chỉnh lợi nhuận: minh chứng từ các doanh nghiệp sản xuất niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

TÓM TẮT

Nghiên cứu này phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố tài chính đến việc lựa

chọn chính sách kế toán để điều chỉnh lợi nhuận của các DN sản xuất niêm yết trên thị

trường chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 100 DN sản xuất

niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, giai đoạn 2011-2015. Áp dụng mô

hình Friedlan (1994), xác định biến phụ thuộc DA (Phần lợi nhuận dồn tích có thể

điều chỉnh) và các biến độc lập trong nghiên cứu, gồm: Quy mô DN (SIZE); Tỷ suất chi

phí lao động trên doanh thu thuần (LCRATE); Hệ số dự báo nguy cơ phá sản DN

(ZSCORE); Chi phí thuế thu nhập DN (TAXCOST); Thu nhập trên một cổ phiếu (EPS);

Hiệu quả hoạt động tài chính (PERF); Hệ số nợ (DEBT); Lợi nhuận dồn tích (TA). Kết

quả phân tích dữ liệu cho thấy, biến TAXCOST và ZSCORE có mối quan hệ ngược chiều

với biến phụ thuộc DA (DN có xu hướng vận dụng các chính sách kế toán để điều

chỉnh giảm, "che giấu" bớt lợi nhuận); các biến SIZE, LCRATE, EPS, PERF có mối quan

hệ thuận chiều với biến phụ thuộc DA (DN có xu hướng vận dụng các chính sách kế

toán để điều chỉnh tăng, "thổi phồng" lợi nhuận).

pdf8 trang | Chuyên mục: Thị Trường Chứng Khoán | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 425 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Ảnh hưởng của các nhân tố tài chính đến việc lựa chọn chính sách kế toán để điều chỉnh lợi nhuận: minh chứng từ các doanh nghiệp sản xuất niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
gân hàng, DN cần xác định chiến lược huy 
động vốn lâu dài và bền vững thông qua thị trường chứng 
khoán Việt Nam. Cụ thể: (i) xây dựng kế hoạch đào tạo, 
chương trình tập huấn về kế toán tài chính nói chung, vấn đề 
điều chỉnh lợi nhuận nói riêng với sự tham gia của các chuyên 
gia nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và sự hiểu biết cho 
nhà quản lý, cổ đông, người lao động trong công ty. (ii) Cung 
cấp cho nhà đầu tư vốn các công cụ, mô hình thực nghiệm cụ 
thể để phân tích thông tin, xét đoán hành vi điều chỉnh lợi 
nhuận, từ đó nhà đầu tư có thể tự nghiên cứu, thực hiện phân 
tích thông tin tài chính của công ty trước khi ra quyết định đầu 
tư. (iii) Cần chú ý các nhân tố ảnh hưởng tới điều chỉnh lợi 
nhuận trên cơ sở vận dụng các chính sách kế toán. Hiệu quả 
hoạt động tài chính, thu nhập trên một cổ phần là những chỉ 
tiêu quan trọng nhất nhà đầu tư quan tâm khi quyết định đầu 
tư vốn, tuy nhiên kết quả nghiên cứu đã chỉ rõ hiệu quả hoạt 
động tài chính cao, mức thu nhập trên một cổ phần “hấp dẫn” 
thì nhiều khả năng DN đã thực hiện điều chỉnh lợi nhuận 
thông qua giá cổ phiếu trên thị trường. Tuy nhiên, DN niêm 
yết cần nhìn nhận đây không phải là một giải pháp an toàn và 
hữu hiệu, việc thực hiện điều chỉnh lợi nhuận chỉ có ảnh 
hưởng trong ngắn hạn, DN không nên vì hướng tới những lợi 
ích trong ngắn hạn mà làm ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh và 
lợi ích lâu dài. Sự điều chỉnh lợi nhuận nếu bị nhà đầu tư phát 
hiện sẽ gây thiệt hại lớn cho DN hơn là lợi ích mà DN đã có 
thông qua hành vi này. Đối với DN có quy mô lớn, không nên 
lấy “sức mạnh”, tầm ảnh hưởng của mình trong kinh tế, chính 
trị để chi phối thông tin kinh tế tài chính của DN, thực hiện 
hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Xây dựng, phát triển DN ngày 
càng lớn mạnh là mục tiêu hướng tới chính đáng không chỉ 
của các công ty lớn nhưng nếu vì theo đuổi mục tiêu này, bất 
chấp các hành vi sai trái như hành vi điều chỉnh lợn nhuận thì 
hậu quả đem đến cho công ty sẽ trái ngược với mong đợi, mất 
đi niềm tin của các nhà đầu tư, hình ảnh, uy tín công ty bị sụp 
đổ, tạo ra một hệ lụy tiêu cực, ảnh hưởng xấu tới tất cả các bên 
có liên quan với công ty. (iv) Tăng cường và nâng cao hơn nữa 
tính độc lập của các thành viên HĐQT, ban kiểm soát và kiểm 
toán nội bộ của DN. 
Ba là, đối với các cơ quan quản lý Nhà nước 
Đối với Ủy ban chứng khoán Nhà nước, (i) cần ban hành bổ 
sung các quy định về chế tài xử phạt đối với các DN niêm yết 
trên thị trường chứng khoán nếu công ty công bố thông tin 
sai lệch quá nhiều so với kết quả đã được kiểm toán (hành vi 
chuyển lãi từ năm nay sang năm sau hay thực hiện gian lận 
để điều chỉnh tăng lợi nhuận). Thực tế hiện nay, đã có quy 
định DN niêm yết không được lỗ trong 03 năm liên tiếp, điều 
này tạo áp lực cho các DN thực hiện điều chỉnh lợi nhuận 
thông qua vận dụng các chính sách kế toán. Nhân tố hệ số 
nguy cơ phá sản DN trong nghiên cứu này đã giải thích rõ 
điều này. Việc cải thiện môi trường pháp lý sẽ tạo ra cơ sở hạ 
tầng tốt cho việc cải cách cơ chế quản trị, nhà đầu tư sẽ tích 
cực hơn, yên tâm hơn khi tham gia thị trường đầu tư. (ii) Tiếp 
tục phối hợp với Hiệp hội kiểm toán viên hành nghề Việt 
Nam (VACPA) nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm 
toán đối với công ty niêm yết, hướng tới xây dựng hệ thống 
tiêu chí đánh giá, xếp loại các công ty kiểm toán hàng năm 
và công bố rộng rãi trên các kênh thông tin về chứng khoán 
để các công ty niêm yết lựa chọn. (iii) Sớm thúc đẩy việc thực 
ECONOMICS-SOCIETY 
Số 44.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 119 
hiện soát xét BCTC theo quý nhằm nâng cao tính minh bạch 
trong công bố thông tin, tăng cường công tác phân tích, 
đánh giá thị trường hỗ trợ nhà đầu tư có thêm các thông tin 
trước khi ra quyết định đầu tư vốn. 
Đối với Bộ Tài chính, (i) tiếp tục xây dựng, cập nhật và 
hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam theo 
hướng thống nhất; quy định chặt chẽ, cụ thể việc sử dụng 
các ước tính kế toán hay việc lựa chọn các phương pháp kế 
toán nhằm hạn chế tính chủ quan của người làm công tác 
quản lý, công tác kế toán. (ii) Có quy định và hướng dẫn cụ 
thể về việc các DN niêm yết phải trình bày chi tiết, giải trình 
rõ ràng căn cứ, cơ sở tính toán việc vận dụng các phương 
pháp kế toán, nguyên tắc kế toán, ước tính kế toán trên 
thuyết minh BCTC. (iii) Thường xuyên kiểm tra, giám sát và 
công bố danh sách các công ty kiểm toán có đủ năng lực, 
uy tín, đảm bảo chất lượng kiểm toán, ban hành quy định 
về xử phạt hành chính hoặc rút giấy phép hoạt động đối 
với các công ty kiểm toán độc lập nếu “sản phẩm” mà họ đã 
kiểm toán bị phát hiện là không trung thực. 
Đối với cơ quan thuế, cần nghiên cứu và tìm hiểu về các 
nhân tố ảnh hưởng đến hành vi của nhà quản lý trong việc 
lựa chọn và sử dụng các chính sách kế toán để điều chỉnh 
lợi nhuận, từ đó tập trung nguồn lực kiểm tra các DN có 
động cơ khai giảm lợi nhuận, khai giảm thuế thu nhập phải 
nộp, đảm bảo thu đúng, thu đủ số thuế phải nộp của các 
DN theo Luật Thuế hiện hành. 
Bốn là, đối với các công ty kiểm toán 
(i) Cần tìm hiểu khách hàng (các DN niêm yết) trước khi 
bắt đầu kiểm toán nhằm thu thập những thông tin cần thiết 
phục vụ cho việc xét đoán các động cơ của khách hàng, qua 
đó biết được xu hướng điều chỉnh lợi nhuận của DN (điều 
chỉnh tăng hay giảm lợi nhuận) bằng việc lựa chọn chính 
sách kế toán, từ đó thiết kế các thủ tục kiểm toán thích hợp. 
Ví dụ: một DN sản xuất niêm yết trên thị trường có kết quả 
kinh doanh bị lỗ trong 02 năm trước đó sẽ có động cơ để vận 
dụng các chính sách kế toán điều chỉnh tăng lợi nhuận, tránh 
lỗ trong năm hiện tại, tránh bị hủy niêm yết theo quy định. 
Dựa vào thông tin này, kiểm toán viên sẽ xây dựng các thủ 
tục kiểm toán phù hợp và hiệu quả. 
(ii) Đối với kiểm toán các ước tính kế toán, cần có sự 
tham gia của các kiểm toán viên có kinh nghiệm và trình độ 
chuyên môn cao. Do bản chất của ước tính kế toán mang 
tính chủ quan cao, vì vậy đây là một công cụ hữu hiệu và 
quan trọng mà DN sẽ sử dụng để điều chỉnh lợi nhuận, làm 
ảnh hưởng đến tính trung thực, hợp lý của các thông tin 
trình bày trên BCTC. Các thủ tục kiểm toán để kiểm toán 
các ước tính kế toán đã được quy định rõ trong VSA 540 
“Kiểm toán các ước tính kế toán”. 
Năm là, đối với các đơn vị đào tạo 
Bên cạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng 
lực chuyên môn cần phải có nhận thức đúng đắn, nghiêm 
túc đối với xã hội trước các hành vi vi phạm pháp luật về 
kinh tế tài chính, hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các DN 
nói chung, DN niêm yết nói riêng. Cụ thể: (i) Đưa các kiến 
thức về hành vi điều chỉnh lợi nhuận và trong chương trình 
học khối ngành kinh tế ở bậc đại học để nâng cao trình độ, 
hiểu biết và nhận thức cho nhà đầu tư tiềm năng trong 
tương lai. (ii) Tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn 
để cung cấp thêm các công cụ phân tích, đánh giá DN, thị 
trường cho nhà đầu tư và các đối tượng quan tâm. (iii) Hỗ 
trợ và có định hướng cụ thể cho các DN để hoàn thiện, 
nâng cao chất lượng quy trình quản trị, điều hành công ty. 
6. KẾT LUẬN 
Chuẩn mực kế toán cho phép các DN có quyền lựa chọn 
chính sách kế toán để áp dụng cho phù hợp với đặc điểm 
của DN, sự lựa chọn chính sách kế toán thường xuất phát từ 
nhiều nhân tố, động cơ và mục đích khác nhau từ phía cá 
nhân và DN. Tuy nhiên, khi lựa chọn các chính sách kế toán 
ghi chép doanh thu, chi phí, DN phải cân nhắc và xem xét sự 
ảnh hưởng của việc lựa chọn đó đến chất lượng và tính trung 
thực của thông tin trên BCTC. Bên cạnh đó, các đối tượng sử 
dụng thông tin trên BCTC cần có nhận thức rõ về động cơ, 
hành vi điều chỉnh lợi nhuận có thể có ở mỗi DN, qua đó có 
cái nhìn khách quan và rõ ràng hơn về thông tin trên BCTC 
của DN trước khi đưa ra các quyết định phù hợp./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Tài Chính (2015), Báo cáo tình hình thị trường chứn khoán năm 2014 
và nhiệm vụ, giải pháp phát triển thị trường 2015. 
2. Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2013), Thống kê ứng dụng trong 
nghiên cứu kinh tế xã hội, Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội. 
3. Huỳnh Thị Cẩm Nhung (2014), Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự 
lựa chọn chính sách kế toán của các DN xây lắp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 
4. Huỳnh Thị Vân (2012), Nghiên cứu việc điều chỉnh lợi nhuận ở các công ty 
cổ phần trong năm đầu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận văn 
thạc sĩ quản trị kinh doanh, Đại học Đà Nẵng. 
5. Nguyễn Quang Dong, Nguyễn Thị Minh (2012), Giáo trình Kinh tế lượng, 
Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 
6. Nguyễn Thị Phương Hồng, Nguyễn Thị Kim Oanh (2014), Các nhân tố 
ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán tại các DN Việt Nam hiện nay, Tạp 
chí Thị trường tài chính-Tiền tệ số 13.07.2014. 
7. Nguyễn Thị Uyên Phương (2014), Nghiên cứu việc điều chỉnh lợi nhuận 
trong trường hợp phát hành thêm cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường 
chứng khoán Việt Nam, Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh, Đại học Đà Nẵng. 
8. Trần Đình Khôi Nguyên (2010), Bàn về mô hình các nhân tố ảnh hưởng 
đến vận dụng chế độ kế toán trong các DN vừa và nhỏ, Tạp chí Khoa học và Công 
nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 5 (40). 
9. Trần Đình Khôi Nguyên (2012), Bàn về chính sách kế toán trong DN, Tạp 
chí Phát triển kinh tế, số 260. 
10. Dechow P.M., Sloan R and Sweeney A. (1995). Detecting earnings 
management. The Accounting Review. 
11. Jensen, MC., Meckling, W.H., (1976). Theory of firm: Managerial 
Behavior, Agency Costs, and Ownership Structure. Journal of Financial Economics. 
12. Kothari S P Leone A J and Wasley C E (2005). Performance Matched 
Discretionary Accruals. Journal of Accounting and Economics. 
13. Watts, R. and J. Zimmerman (1978), Towards a Positive Theory of the 
Determination of Accounting Standards, The Accounting Review 53 (January). 
14. Watts, R. and J. Zimmerman (1986), Positive Accounting Theory, 
Edgewood Cliffs, NJ: Prentice Hall. 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_cac_nhan_to_tai_chinh_den_viec_lua_chon_chinh.pdf
Tài liệu liên quan