Ẩn dụ tri nhận trong một số bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Tóm tắt
Bài viết khảo sát một số bút ký của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường trên phương diện ngôn ngữ học tri
nhận. Thông qua những ẩn dụ tri nhận, người viết đề cập đến hai nội dung cơ bản:
- Các cách ý niệm về thiên nhiên trong bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Các cách ý niệm về nghiệm thân trong bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Trên cơ sở đó, bước đầu tìm hiểu những đặc điểm về phong cách ngôn ngữ của nhà văn Hoàng Phủ
Ngọc Tường ở góc độ ẩn dụ tri nhận.
gười mẹ 7 Rừng cây Người đẹp 8 Động vật Con người 9 Cây cối Nhân chứng 10 Dòng song Con người 11 Mặt đất Tâm hồn 12 Cây cối Nhân chứng 13 Hoa hồng Chiến thắng 14 Lửa Tình cảm, nhiệt tình 15 Con dốc Khó khăn 16 Núi non Con người Có thể thấy, trên nền tảng những đặc điểm do tương tác mà có, nói khác, Hoàng Phủ Ngọc Tường từ những trải nghiệm của chính mình đã gán cho sự vật hiện tượng trong một số trường hợp trên tất cả cho thấy tình cảm gắn bó với quê hương sâu đậm như thế nào của tác giả. Công bằng mà nói, thiên nhiên là con người, rừng cây là con người; có thể thấy cách hình dung này xuất hiện ở các tác giả khác nhưng để có được những ẩn dụ bậc dưới về Huế, về con người Huế thì sâu sắc nhất vẫn là ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. 4. Một trong những vấn đề làm nên hạt nhân của ngôn ngữ học tri nhận là lý thuyết nghiệm thân. Nói rõ hơn, thông qua những kinh nghiệm với chính cơ thể mình, con người dùng nó như trải nghiệm cơ bản để nhận thức các sự vật hiện tượng khác. Chẳng hạn, tư thế thẳng đứng của con người trong lúc di chuyển, tư thế ngang trong lúc nằm, di chuyển một cách tách biệt trên mặt phẳng. Tất cả những trải nghiệm này đều được dùng để phóng chiếu lên hiện thực như: vui thì thường được hình dung là lên, buồn thì được hình dung là xuống, sống là lên, chết là xuống, tích cực là rộng, là sáng, tiêu cực là hẹp, là tối. Liên quan trực tiếp đến vấn đề đang bàn là giá trị biểu trưng của các bộ phận cơ thể con người. Tuy chưa có điều kiện khảo sát tất cả những tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường nhưng có thể ghi nhận bước đầu, bên cạnh việc dùng đầu biểu trưng cho lý trí, trí tuệ, trái tim biểu trưng cho tình cảm, cảm xúc, tùy theo ngữ cảnh ta thấy tác giả còn dùng các cơ quan nội tạng như: bụng, dạ, lòng, ruột, gan với cùng chức năng như hai bộ phận trước. Điều này, có thể giải thích được, cách phân chia có tính chất nhị nguyên: đầu/tim là ảnh hưởng của triết học phương Tây còn có cách lý giải bụng/dạ ảnh hưởng của tri thức dân gian phương Đông (11). Riêng về phương diện này phần nào cho thấy tính chất dung hợp như một quan điểm kế thừa trong bút pháp của ông. Theo quan sát của chúng tôi trong 100 ẩn dụ nghiệm thân, sự phân bố các bộ phận cơ thể trong bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường có thể hình dung bằng bảng tổng kết như sau: ĐẬU THÀNH VINH 99 STT BỘ PHẬN CƠ THỂ GIÁ TRỊ BIỂU TRƯNG 1 Đầu Lý trí, trí tuệ 2 Tim Tình cảm, cảm xúc 3 Bụng Tính tình, cách ứng xử, tình cảm 4 Dạ Trí tuệ, trạng thái tâm lý 5 Ruột Tâm trạng, cảm xúc 6 Lòng Cảm xúc, tình cảm, trạng thái 7 Gan Ý chí, can đảm 8 Các bộ phận khác Nghĩa tuỳ thuộc vào ngữ cảnh Có thể ghi nhận bao trùm lên tất cả là ẩn dụ các bộ phận cơ thể con người là vật chứa có thể được định vị bên trong hay bên ngoài. Hình như Hoàng Phủ Ngọc Tường chưa có ý thức khai thác đặc trưng này, cho nên những mô tả của ông không có khác biệt gì nhiều so với không gian tinh thần của người Việt. 5. Ẩn dụ tri nhận là lĩnh vực khá mới mẻ trong ngành ngôn ngữ. Tuy vậy, đây là lĩnh vực phát triển mạnh mẽ vượt ra ngoài phạm trù văn chương. Ẩn dụ tri nhận là sự mở rộng tri thức, cung cấp sự hiểu biết về một đối tượng này thông qua sự hiểu biết về một đối tượng khác. Bằng cách đó, con người tạo ra cho mình sự hiểu biết về một đối tượng khác đã biết. Phạm vi hành chức của ẩn dụ rất rộng: trong văn học, nghệ thuật và hầu hết các lĩnh vực đời sống thường nhật. Ẩn dụ không chỉ là phương tiện và cách thức biểu hiện của ngôn ngữ mà nó còn là phương thức tư duy. Nó là một quá trình thao tác của tư duy dẫn đến tri nhận thế giới, tạo ra nền tảng tri thức mới dựa trên nền tảng những cái đã biết. Xuất phát từ phương thức ẩn dụ mà con người có thể nhận biết thế giới, gồm thế giới vật chất, thế giới tinh thần, thế giới cảm xúc. Ẩn dụ gắn liền với đặc trưng văn hóa của người bản ngữ. Chúng ta không thể có được sự đánh giá cao về chức năng của tư duy ẩn dụ trong văn học hay trong đời sống con người, nếu không có kiến thức sơ bộ về ẩn dụ là gì và nó hình thành như thế nào. Những khám phá gần đây về mặt bản thể của nó đã cho thấy ẩn dụ sẽ không là gì cả nếu như nó ở ngoại vi đời sống tinh thần. Trái lại, ẩn dụ tri nhận là trung tâm đối với sự hiểu biết của chúng ta với chính bản thân mình và xã hội. Văn chương thông qua ẩn dụ, phát triển năng lực tinh thần, thể hiện cá tính sáng tạo dựa vào các lược đồ thường qui. Ẩn dụ tri nhận là một bộ phận hợp thành của sự sáng tạo ngôn ngữ và khả năng nhận thức của con người về thế giới khách quan. Ngôn ngữ học tri nhận với hệ lí thuyết ẩn dụ ý niệm, hiện nay được nhiều nhà nghiên cứu chú ý và được vận dụng nối kết hai miền ý niệm xảy ra trong quá trình tư duy của con người. Các nhà ngôn ngữ học tri nhận hi vọng tìm ra những điểm mới về bản chất của ẩn dụ mà những quan niệm truyền thống dường như chưa bao quát đầy đủ. Đó là chuyển tâm điểm của sự chú ý từ ẩn dụ trong ngôn ngữ sang ẩn dụ trong trí não, xem đó là chìa khóa mở ra sự hiểu biết những cơ sở của tư duy, là hoạt động của quá trình nhận thức. Bài ẨN DỤ TRI NHẬN TRONG MỘT SỐ BÚT KÝ CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG 100 viết ngắn này, chúng tôi khảo sát các ẩn dụ tri nhận về con người và thiên nhiên trong các truyện ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường theo quan niệm ẩn dụ tri nhận của Lakoff và Johnson. Bên cạnh đó, những khám phá mới về những đặc điểm của các yếu tố ngôn ngữ trên bình diện ẩn dụ trong ký của ông cũng được nhìn nhận và đánh giá lại. Có thể thấy, bản chất thiên nhiên và con người Huế đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường mô tả một cách tài hoa. Nói khái quát, từ ẩn dụ thiên nhiên và con người, thậm chí là sông Hương và nói rộng ra là bối cảnh Huế, là con người Huế. Phải gắn bó máu thịt với Huế như thế nào mới có được những trang viết sâu nặng, mới có thể miêu tả, khắc họa sinh động được như thế. Zotan Kovecses có lý khi cho rằng, mọi sáng tạo có tính cá nhân của nhà văn đều dựa vào không gian tinh thần bản ngữ. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không phải là ngoại lệ, ông thường xây dựng ẩn dụ thông qua các phương thức khai thác sau: - Chi tiết hóa, tức thông qua một số ẩn dụ tri nhận có tính khái quát, nhà văn đã cụ thể hóa các ẩn dụ ấy bằng những cảm nhận riêng của mình, ví dụ: xuất phát từ ẩn dụ: đời người là cỏ cây, đời người là một năm, nói rõ hơn, các mùa xuân, hạ, thu, đông được ánh xạ như cuộc đời của một con người, mùa xuân là tuổi trẻ, mùa đông là tuổi già xế bóng, ánh sáng là sự sống, bóng tối là cái chết. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mô tả một cách chi tiết con người Huế thông qua cây cỏ như thế nào. Các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông và những biểu hiện của con người Huế như thế nào và cuối cùng thời gian là quy luật của tạo hóa với những dấu ấn và đặc điểm được miêu tả qua không gian, thời gian Huế như thế nào. - Mở rộng nghĩa, phương thức này cho thấy sự chuyển nghĩa không những dựa vào ẩn dụ tri nhận mà còn dựa vào cả hoán dụ tri nhận. Ví dụ: Xuất phát từ cách tri nhận mặt thay thế cho con người, rừng cây là con người, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất nhiều lần đề cập đến bộ mặt của rừng cây. Hay như đã nói, từ ẩn dụ gần gũi vật chất là gần gũi con người, Hoàng phủ Ngọc Tường đã đề cập đến giá trị truyền thống của chiếc nón bài thơ Huế; nón bài thơ Huế chính là con người Huế. - Tổng hợp, đây là phương thức thông qua các ẩn dụ thường qui, cùng một lúc khai thác nhiều loại ẩn dụ như: ẩn dụ chi tiết hóa, ẩn dụ mở rộng nghĩa, ẩn dụ tra vấn, thậm chí kết hợp với các hoán dụ, nhân hoá, so sánh. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng một cách uyển chuyển tất cả các phương thức trên, chính điều này đã làm nên tính chất trí tuệ trong bút ký của ông và cũng chính điều này, từ phía người đọc, việc nhận hiểu và lý giải tác phẩm của ông một cách thấu đáo quả là điều không dễ dàng. Như vậy, xét cả trên bình diện các ẩn dụ thường quy khái quát và cả những ẩn dụ mang tính sáng tạo cá nhân, Hoàng Phủ Ngọc Tường đều sử dụng một cách đa dạng phong phú, bằng cách kết hợp nhiều loại ẩn dụ khác nhau. Rất tiếc, do điều kiện hạn chế của một bài báo ngắn, chúng tôi chưa có dịp khảo sát kỹ, chưa phân loại một cách chi tiết, mà ở đây chỉ có tính chất đặt vấn đề cho những nghiên cứu tiếp theo. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2002), Tuyển tập, tập 2 – Bút ký, Nxb Trẻ. 2. Kövecses Z. (2005), Metaphor in Culture Universality and Variation, Cambridge University Press, Cambrige. 3. Lakoff G and Johnson M. (1980, 2003), Metaphors we live by, The university of Chicago, The United States of American. 4. Lakoff G. and Johnson M. (1989), More than cool reason: A field guide to poetic metaphor, The university of Chicago, Chicago. ĐẬU THÀNH VINH 101 5. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng Văn hoá – Dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, Nxb Từ điển Bách khoa. 6. Sharifian F. (2011), Cultural conceptualization, John Benjamins publishing company, Amsterdam/Philadelphia. 7. Trịnh Sâm (2011), “Miền ý niệm sông nước trong tri nhận của người Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (12), tr.1-15. 8. Trịnh Sâm (2011), “Dòng sông và cuộc đời”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, (10), tr.31-34. 9. Trịnh Sâm (2013), “Phong cách ngôn ngữ Hồ Chí Minh, nhìn từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, (1, 2), tr.2-15. 10. Trịnh Sâm (2014), “Miền ý niệm sông nước trong tri nhận của người Nam Bộ” trong “Ngôn ngữ học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập”, kỷ yếu Hội thảo quốc tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 11. Trịnh Sâm (2014), “Một vài nhận xét về ý niệm “Tim””, Tạp chí Từ điển học và bách khoa thư số 4. 12. Trịnh Sâm, (2015), “Hình thức và nội dung trong tri nhận luận” (một vài ghi nhận), Tạp chí ngôn ngữ số 7. Ngày nhận bài: 28/6/2015 Biên tập xong: 15/9/2015 Duyệt đăng: 20/9/2015
File đính kèm:
- an_du_tri_nhan_trong_mot_so_but_ky_cua_hoang_phu_ngoc_tuong.pdf