Xu hướng vận động, đổi mới của hình thức thể loại truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1940-1945
TÓM TẮT
Trong thành tựu có thể nói là phong phú, rực rỡ của văn xuôi quốc ngữ gồm nhiều thể loại trƣớc
1945, truyện ngắn có tầm quan trọng và vị trí riêng. Nhìn một cách tổng quát, có thể thấy những cách
tân của văn xuôi 1940-1945 nằm trong quá trình đổi mới liên tục của văn học nói chung. Quá trình ấy
đƣợc bắt đầu từ đầu thế kỷ XX với định hƣớng lớn là hiện đại hoá, dân chủ hoá và dân tộc hoá. Trong
đó, truyện ngắn 1940-1945 giữ vai trò hoàn kết quá trình hiện đại hoá, chẳng những của thể loại, mà
còn là của toàn bộ nền văn xuôi quốc ngữ. Sự hiện đại ấy thể hiện ở việc gia tăng rõ rệt của chất tiểu
thuyết bằng những trang viết đậm chất văn xuôi, ở việc tiếp cận, chiếm lĩnh con ngƣời từ góc độ đời
tƣ, ở quá trình phát triển từ đơn giản đến phức tạp của một số hình thức nghệ thuật nhƣ kết cấu, nhân
vật, phƣơng thức trần thuật. Đặc biệt là ở kết hợp nhuần nhị của các thể loại cũng nhƣ các phƣơng
thức nghệ thuật.
, thì chất trữ tình cũng toát ra từ những hình ảnh, giọng điệu, lời văn để khơi gợi trong lòng độc giả biết bao cảm xúc: “ Ninh nắm lấy bàn tay của bu, chỉ còn rặt những xương, mà giá lạnh. Nó lỏng la, lỏng lẻo. Những ngón trông rõ từng đốt, từng đốt một. Những đường gân xanh nổi thày lày lên” (Từ ngày mẹ chết). Trong ngòi bút Nguyên Hồng cũng có sự kết hợp của hai yếu tố tự sự và trữ tình. Nhƣng, khác với Nam Cao, yếu tố trữ tình ở ngòi bút của Nguyên Hồng thƣờng đƣợc bộc lộ rõ nét và mạnh mẽ trong những lời văn và hình ảnh mà ông miêu tả. Tƣởng nhƣ nhà văn đã dồn tất cả cảm xúc, lòng yêu thƣơng của mình vào trong đó để đốt cháy tâm can ngƣời đọc. Cuộc đời bất hạnh của những ngƣời nhƣ mụ Mão (Người đàn bà không con), mợ Du (Mợ Du), Lệ Hà (Người con gái), Thạo bé (Giọt máu)... đƣợc nhà văn kể lại bằng giọng điệu dƣng dƣng cảm động và xót xa. Hãy xem ông miêu tả hình ảnh Thạo bé, sau khi vƣờn ngô cô bé trồng bị mụ chủ nhà phá nát: “Cả buổi chiều hôm ấy, chẳng nón áo gì, Thạo bé cứ luẩn quẩn hết gốc ngô này sang gốc ngô khác vuốt, chắp chắp, nối nối, và khóc. Nó khóc chỉ có tiếng nức nở chứ không thấy nước mắt. Nước mắt của nó bị nhoà hẳn dưới những trận mưa đổ rào rào xuống người nó run cầm cập và xám ngắt” (Giọt máu) Bên cạnh sự kết hợp của yếu tố tự sự - trữ tình, truyện ngắn 1940-1945 còn tạo ra một sự kết hợp khác đầy thú vị, đó là sự kết hợp của yếu tố trào phúng với yếu tố trữ tình. Giờ đây, tuy không còn có những “cây” trào phúng nhƣ Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, nhƣng lại có thể tìm thấy chất trào phúng- trữ tình đƣợc kết hợp, đan xen trong truyện của Nam Cao, Nguyễn Tuân, Phan Du, Bùi Hiển, Hƣớng Minh. Và, những Quên điều độ, Cái mặt không chơi được, Những truyện không muốn viết, Cười, Nhỏ nhen của Nam Cao; Cái đồng hồ, Hai anh học trò có vợ, Ốm, Người chồng gầy của Bùi Hiển; Thằng bơ của Hƣớng Minh; Nhà Nguyễn, Đôi tri kỷ Đinh Thị Cẩm Lê Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 22 - 28 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 27 gượng của Nguyễn Tuân; Sống gởi của Phan Du...là những minh chứng tiêu biểu. Đặc biệt, có nhiều tác phẩm, tuy là truyện ngắn nhƣng đƣợc viết dƣới dạng hồi ký- tự truyện, hoặc đƣợc viết dƣới dạng tuỳ bút. Ở truyện ngắn mang dáng dấp hồi ký- tự truyện, câu chuyện đƣợc nhà văn sáng tạo thông qua những hồi tƣởng về quá khứ. Đó là những kỉ niệm vui buồn mà họ đã trải qua và thấm thía sâu sắc. Trong tác phẩm của Nam Cao luôn thấy trở đi, trở lại những hồi ức về ngôi làng Đại Hoàng, quê hƣơng ông và những ngƣời thân yêu của ông: bà ngoại vất vả, lam lũ (Nhìn người ta sung sướng), ngƣời dì nuôi hiền lành (Dì Hảo), nhẫn nhịn, ngƣời vợ tảo tần (Trăng sáng, Cười, Bài học quét nhà...) và những ngƣời nông dân chất phác, thật thà (Lão Hạc, Ở hiền, Điếu văn...). Tập Chân trời cũ của Hồ Dzếnh cũng vậy. Có thể gọi đây là những truyện ngắn-hồi ký, vì những kỉ niệm về tuổi thơ bên cạnh những ngƣời ruột thịt chính là nguồn cảm hứng và chất liệu chính trong tác phẩm này. Còn truyện ngắn Tôi đi học của Thanh Tịnh thì thật sự là một cuốn hồi ký: “truyện” kể lại kỉ niệm của buổi đầu tiên đi học của một cậu bé, với những cảm xúc mới mẻ và trong trẻo, qua sự hồi tƣởng của nhân vật “tôi” khi bắt đầu bƣớc chân vào lớp một... Ở những truyện đƣợc viết dƣới dạng tuỳ bút, nhà văn không chỉ ghi chép về những con ngƣời và sự kiện cụ thể, mà còn chú trọng đến việc bộc lộ cảm xúc, suy tƣ và nhận thức đánh giá của mình về con ngƣời và cuộc sống hiện tại. Chính điều này khiến cho các sáng tác truyện ngắn - tuỳ bút giai đoạn 1940-1945 vừa giầu chất trữ tình, lại vừa mang đậm yếu tố suy tƣởng, triết lý. Ở truyện ngắn Đôi tri kỉ gượng của Nguyễn Tuân, qua hình ảnh nhân vật Nguyễn, ngƣời đọc có thể bắt gặp một Nguyễn Tuân đầy cá tính, luôn “kiêu hãnh”, “kênh kiệu”, ngƣời “được sinh ra để mà thờ Nghệ Thuật”. Con ngƣời ấy luôn khao khát sống một cuộc sống thực sự có ý nghĩa, chứ không phải là một cuộc sống “lèm nhèm, lẹt đẹt, lờ mờ, luộm thuộm và bằng lòng của tất cả chung quanh”. Trong tác phẩm, Nguyễn thƣờng xuất hiện với dáng vẻ trầm ngâm, suy tƣ. Suy tƣ về ý nghĩa, giá trị cuộc sống, về những mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời...để rồi chàng nhận ra rằng: “Người ta không quen nhau, không được đánh bạn với nhau nhiều khi thì lại là hay. Đã không chơi với nhau thì có bao giờ phải nói đến hai chữ phụ nhau. Cái lầm của nhiều người là cứ đi vét lấy những linh hồn bầu bạn để rồi về sau lại làm đau khổ lẫn nhau, phụ lẫn nhau”. Nếu có thể thay tên nhân vật chính- Nguyễn- và có một cách tiếp cận các truyện trong tập sách bằng “tôi”, thì tập truyện ngắn sẽ hoàn toàn trở thành một tập tuỳ bút, bên cạnh Tuỳ bút I, Tuỳ bút II của nhà văn. Ở giai đoạn này cũng có những truyện ngắn rất gần với thơ. Chất thơ ấy toát lên từ cảm xúc sâu lắng, dịu dàng của tác giả. Đọc những truyện ngắn gần nhƣ thơ ấy, có thể thấy chất trữ tình nhƣ thấm đƣợm trong từng hình ảnh, chi tiết, giọng điệu, lời văn và dƣ âm của nó nhƣ vẫn còn lan toả mãi trong tâm hồn ngƣời đọc, cho dù trang sách đã khép lại. Có thể kể: Dưới bóng hoàng lan (Thạch Lam), Tình trong câu hát, Bến nứa, Tình thư (Thanh Tịnh), Nhặt cánh hoa tàn (Nam Cao)... Trong những truyện ngắn này, ý nghĩa của nó không nằm ở cốt truyện, mà ở không khí, cảm xúc, tâm trạng bàng bạc trong truyện. Ngay trong Chí Phèo của Nam Cao, một ngòi bút tự sự nhiều khi khách quan đến lạnh lùng, vẫn có thể tìm thấy chất thơ ẩn chứa ở trong đó. Khi Chí Phèo (Chí Phèo) tỉnh rƣợu, âm thanh đầu tiên mà hắn nghe thấy là những âm thanh của cuộc sống đời thƣờng, quen thuộc. Đó là tiếng chim hót, tiếng cƣời nói của những ngƣời đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tất cả là“chất thơ được cất lên từ cuộc sống hàng ngày lam lũ” (lời Nguyễn Đăng Mạnh), thế nhƣng cũng đủ để làm lay động tâm hồn ngƣời đọc, bởi nó đƣợc chắt ra từ tình yêu thiết tha với quê hƣơng, với con ngƣời Việt Nam của nhà văn. Ngoài ra, trong truyện ngắn giai đoạn này còn có những sự kết hợp, đan xen khác: truyện ngắn với Đinh Thị Cẩm Lê Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 22 - 28 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 28 phóng sự (Phi Vân, Kim Lân) hoặc truyện ngắn đƣợc viết dƣới dạng những bức thƣ (tập Cuộc sống của Nguyên Hồng, các truyện Ngày mai tôi sẽ chết của Vũ Bằng, Gia đình của Hƣớng Minh ). Những kết hợp mới mẻ, sáng tạo đó đã tạo nên những sắc thái mới, đa dạng cho truyện ngắn, đồng thời mang đến cho thể loại này những cách thể hiện độc đáo và đặc sắc. Do đâu mà thể loại truyện ngắn ở chặng cuối của quá trình hiện đại hoá lại có sự tổng hợp nhƣ vậy? Phải chăng đó chính là biểu hiện của sự thức tỉnh mạnh mẽ của ý thức cá nhân. Các nhà văn giai đoạn này muốn đƣợc sống thật, sống sâu sắc với những suy nghĩ, tƣ tƣởng của chính mình. Cùng với đó, xu hƣớng chung của họ lúc này là bám sát đời sống, tiếp xúc tối đa với đời sống và số phận, tâm hồn con ngƣời, nên họ không thể viết một cách công thức theo kiểu ƣớc lệ, sơ đồ, mà phải sáng tạo, linh hoạt để đáp ứng đƣợc cao nhất với việc thể hiện chân thực, sâu sắc cuộc sống muôn mầu, muôn vẻ, lại luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng, đồng thời, nhận biết, khám phá sự phức tạp, đa chiều bên trong mỗi con ngƣời. Để có thể làm đƣợc nhƣ vậy, hình thức thể loại cũng cần phải đa dạng và có khả năng vƣợt ra khỏi ranh giới của chính nó, để ôm trùm đƣợc tất cả những biểu hiện ấy. Có thể nói, cùng với những tiến bộ về nội dung, tƣ tƣởng, sự đổi mới của hình thức thể loại truyện ngắn 1940-1945 đã soi sáng phần nào con đƣờng phát triển ngoạn mục của truyện ngắn quốc ngữ nói riêng và của nền văn xuôi mới nói chung. Theo thời gian, nhiều giá trị có thể bị lu mờ, nhƣng những giá trị đích thực của thể loại truyện ngắn giai đoạn này thì vẫn luôn toả sáng. Những giá trị của một thời ấy là những giá trị mà các thế hệ nhà văn hôm nay vẫn tiếp tục kế thừa, phát triển, để tạo nên sự vận động và đổi mới không ngừng của dòng chảy văn học dân tộc. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Nguyễn Hoành Khung (1973), Nam Cao trong Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945, tập V, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [2]. Vƣơng Trí Nhàn (1980), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn, Hà Nội. [3]. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Khải luận - Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 30A, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. [4]. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Nhập môn văn học và phân tích thể loại, Nxb Đà Nẵng. SUMMARY MOBILITY TRENDS, INNOVATIVE FORMS OF VIET NAM SHORT STORY CATEGORY FOR THE PERIOD 1940 – 1945 Dinh Thi Cam Le Hanoi National University of Education In the brilliant achievements of the national language prose in various genre before the year of 1945, short stories played an important role in their unique placement. In general, we can see the innovations of prose during the period from 1940 to 1945 were in a continuous process of renewal of general literature. The process that began in early twentieth century has the major orientation of modernization, democratization and nationalization. And the short stories (1940_1945) acted the role to complete the process of modernization of the genre of short stories and the whole national language prose. The modernization was reflected in increased markedly novel substance characterized by the pages of fiction, in the access, dominated from the perspective of people's privacy, in the process of development from simple to complex of some forms of art such as structure, character and narrative method. Particularly, it is the smooth in the combination of genres as well as of art methods. Key words: Short stories, iconic characters, art form, genre, description. Đinh Thị Cẩm Lê Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 22 - 28 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 22
File đính kèm:
- xu_huong_van_dong_doi_moi_cua_hinh_thuc_the_loai_truyen_ngan.pdf