Xã hội hóa các dịch vụ gia đình ở Việt Nam

TÓM TẮT

Thông qua phương pháp nghiên cứu định tính, tổng quan các tài liệu, dữ

liệu thứ cấp, nghiên cứu này phân tích thực trạng về xã hội hóa các loại hình dịch

vụ gia đình ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, dịch vụ gia đình đã trở nên

phổ biến ở khu vực kinh tế phát triển, tuy nhiên còn hạn chế ở những vùng điều

kiện kinh tế thấp hơn; xã hội hóa các dịch vụ gia đình thể hiện sự phát triển của

xã hội, tạo ra môi trường cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển, đem lại lợi ích cho

gia đình nói riêng, toàn xã hội nói chung.

pdf5 trang | Chuyên mục: Xã Hội Học | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 264 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Xã hội hóa các dịch vụ gia đình ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
 
đình trong xã hội. Nhiều gia đình, kể cả ở miền núi hoặc hải 
đảo cũng có thể tham gia vào chuỗi dịch vụ du lịch trực 
tiếp với các gia đình khác trên mọi miền. Tuy nhiên, dịch vụ 
tổ chức hiếu, hỷ ở đô thị hiện nay đang bị biến thể, thực 
hiện theo cách hoàn toàn khác. Đám cưới ở các đô thị 
thường tổ chức ở khách sạn, nhà hàng, hoặc thuê người 
đến nhà nấu nướng, phục vụ. Đám hiếu thì thường được tổ 
chức ở nhà tang lễ của các bệnh viện hoặc của thành phố. 
Điều này đã dấn đến việc mối quan hệ huyết thống trong 
gia đình hoặc quan hệ với xóm làng bị mờ nhạt, mỗi gia 
đình tự lo liệu tùy theo hoàn cảnh của mình. Dịch vụ gia 
đình trong nghi lễ vòng đời của một con người từ khi sinh 
ra cho đến khi trưởng thành, cưới xin, lên lão, đến ma chay, 
cầu cúng đều có các công ty dịch vụ đảm nhận. Cách tổ 
chức này đã làm cho cảm xúc của con người thay đổi, cảm 
thấy buồn vì sự hiện diện của họ hàng, người thân, xóm 
làng không được đông đủ như xưa và nghi lễ cũng không 
còn sự trang nghiêm, trọng thể. Tuy nhiên, đây cũng có thể 
là con đường để tiến lên xã hội văn minh, tiến bộ. Tình yêu, 
hạnh phúc, đạo đức, sự hiếu thảo vẫn được thể hiện, chỉ có 
điều nó được thể hiện bằng cách thức đơn giản hơn, không 
cầu kỳ và tốn kém như xưa. Dịch vụ gia đình ở các đô thị về 
mặt nghi lễ, phong tục, tập quán là một nét đặc trưng, là 
loại nhu cầu đặc biệt không thể thiếu. 
Yếu tố tác động đến xã hội hóa các dịch vụ gia đình 
Xã hội hóa các dịch vụ gia đình dù ở loại hình nào đều là 
những hợp đồng kinh tế, vì vậy, luôn chịu sự tác động của 
những yếu tố: sự phát triển kinh tế, xã hội; luật pháp; 
phong tục tập quán; đạo đức; khoa học, công nghệ (hình 2). 
(Nguồn: Phạm Ngọc Trung, 2016) 
Hình 2. Yếu tố tác động đến xã hội hóa các dịch vụ gia đình 
Yếu tố kinh tế-xã hội: các loại hình dịch vụ gia đình ở 
nước ta hiện nay đang phát triển dần từ trình độ tự phát, 
mang đậm yếu tố tình cảm sang trình độ có tổ chức nhất 
định, mang đậm yếu tố kinh tế. Về bản chất, đây chính là 
mối quan hệ tương tác hai chiều (hoặc đa chiều) giữa một 
bên có nhu cầu dịch vụ và một bên có khả năng đáp ứng 
dịch vụ. 
 ECONOMICS-SOCIETY 
Số 46.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 159
Yếu tố công nghiệp hóa, hiện đại hóa và yếu tố đô thị 
hóa: quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa 
đã góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển, từng 
bước phá vỡ cấu trúc của gia đình tiểu nông truyền thống, 
dần dần hình thành tầng lớp thị dân với mô hình gia đình 
hạt nhân hai thế hệ là chủ yếu. Song song với sự phát triển 
kinh tế ngày càng cao, sự phát triển xã hội cũng đạt đến 
trình độ nhất định, làm cho thế hệ trẻ ngày nay thay đổi 
nhận thức. Họ nhận thức được rằng gia đình là tế bào của 
xã hội, cần phải tương tác, trao đổi thì tế bào gia đình mới 
có thể phát triển được. 
Yếu tố luật pháp, cơ chế, chính sách: để những dịch vụ 
gia đình đi vào cuộc sống, ngày càng trở nên rõ ràng, bảo 
đảm quyền lợi, nghĩa vụ của mỗi bên đều được thực hiện 
tốt thì hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách cho những 
dịch vụ đó phải được xây dựng và ngày càng hoàn thiện. 
Hơn nữa, hệ thống cơ chế chính sách pháp luật cũng cần 
phải được cụ thể và minh bạch để có thể đi vào cuộc sống. 
Việt Nam với nền văn hóa phương Đông, trọng nghĩa hay 
nể nang, tâm lý nông dân còn đậm nét, đồng thời những 
yếu tố về tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc cũng chi 
phối, đã tác động đến các loại hình dịch vụ gia đình, vì vậy, 
những dịch vụ này cũng thiên về tình cảm hơn là về pháp 
lý, có thể xảy ra tranh chấp và thiệt thòi thường về phía 
người lao động. 
Yếu tố đạo đức biểu hiện rõ nét nhất qua nhân cách con 
người, cũng tác động không nhỏ đến các loại hình dịch vụ 
gia đình. Vì dịch vụ là thỏa thuận, hợp đồng giữa hai bên, 
cho nên mỗi bên đều phải có trách nhiệm hoàn thành 
những điều đã cam kết. Những cam kết đó chỉ được thực 
hiện tốt khi mọi người đều phải có đạo đức, lòng trung 
thực, tôn trọng đối tác và phẩm giá của mình. Có lòng tự 
trọng, coi đối tác như chính người thân của mình, đồng 
thời coi sự thành đạt của đối tác là một phần quan trọng 
trong công việc của mình thì mâu thuẫn, tranh chấp mới 
không xảy ra. 
Yếu tố toàn cầu hóa và sự phát triển của khoa học, 
công nghệ ngày càng tác động sâu sắc đến các loại hình 
dịch vụ gia đình. Từ khi tham gia vào toàn cầu hóa, nhận 
thức của đa số các bạn trẻ về vấn đề gia đình và dịch vụ gia 
đình đã thay đổi. Họ có thêm hiểu biết, thông tin và mô 
hình để tham khảo, nghiên cứu học tập, thực hiện. Tuy 
nhiên, khoa học công nghệ đã vô tình làm các thành viên 
trong gia đình giảm sự gắn kết, chia sẻ bằng lời nói, hành 
động trực tiếp. Công nghệ đã chiếm gần như toàn bộ thời 
gian của các thành viên trong gia đình nhất là đối với thế 
hệ trẻ. Hơn nữa, sự phát triển của khoa học, công nghệ, đặc 
biệt là truyền thông trong môi trường Internet đã thu hẹp 
khoảng cách giữa các cá thể trong xã hội, từ bữa ăn, giấc 
ngủ, phương tiện sinh hoạt trong gia đình cho đến nhu cầu 
tinh thần, vui chơi giải trí, học tập, tư vấn, chia sẻ tình 
cảm đều có thể được phục vụ chu đáo, ranh giới giữa các 
gia đình với hệ thống dịch vụ gia đình trên quy mô quốc 
gia và quốc tế dường như đang bị xóa nhòa. Xã hội hóa 
dịch vụ gia đình vượt qua các rào cản, xuyên quốc gia, có 
thể kết nối với từng gia đình, trên các lĩnh vực làm cho mọi 
nhu cầu đều được đáp ứng bất kỳ lúc nào. Đó là một bước 
tiến lớn lao của xã hội, dựa trên nền tảng của khoa học, 
công nghệ hiện đại nhưng chính điều này lại dần gia tăng 
khoảng cách giữa các thành viên trong gia đình. 
Vấn đề đặt ra từ xã hội hóa dịch vụ gia đình 
Bên cạnh việc xã hội hóa các dịch vụ gia đình mang lại 
lợi ích thiết thực, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển thì 
vấn đề xã hội hóa dịch vụ gia đình cũng cho thấy còn nhiều 
vấn đề nảy sinh: 
Xã hội hóa dịch vụ công gia đình: dịch vụ thuộc lĩnh 
vực đất đai (cung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 
quyền sở hữu tài sản trên đất) xây dựng (giấy phép xây 
dựng, mua bán, sang tên đổi chủ bất động sản); đăng ký 
quyền cư trú, tạm trú, tạm vắng, hộ khẩu, làm chứng minh 
nhân dân, khai sinh, khai tử, lập di chúc, nhập học vào các 
trường lớp trong hệ thống giáo dục quốc gia, đăng ký kết 
hôn và hoạt động liên quan đến tố tụng thuộc hệ thống 
pháp lý (xử án dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình). Tuy 
nhiên, trong quá trình thực hiện các dịch vụ trên đã hình 
thành một đội ngũ không nhỏ làm việc trung gian (cò đất, 
cò làm các loại giấy tờ) nhằm kiếm lợi hoặc gây khó khăn 
cho các bên tham gia. 
Xã hội hóa dịch vụ y tế - giáo dục: khi thực hiện xã hội 
hóa ở góc độ nào đó đã làm bộ phận không nhỏ cán bộ, 
giáo viên, bác sĩ bị tha hóa về phẩm chất. Lợi dụng xã hội 
hóa các dịch vụ gia đình một số các bác sĩ, cán bộ, giáo viên 
đã tư lợi cá nhân, lợi dụng ép làm thêm, học thêm tràn làn 
gây tốn kém về vật chất và ảnh hưởng đến súc khỏe của 
các thành viên trong gia đình. Trong y tế cũng như trong 
giáo dục bắt đầu hình thành tư tưởng của một bộ phận 
không nhỏ những người có tiền có thái độ không tôn trọng 
đức nghề nghiệp, truyền thống tôn sư trọng đạo của nghề. 
Bên cạnh đó, xã hội hóa dịch vụ gia đình y tế, giáo dục đã 
ảnh hưởng đến vấn đề công bằng người đến trước không 
có tiền vẫn phải chờ đợi, người có tiền được quan tâm 
chăm sóc, ưu tiên hơn. 
Xã hội hóa dịch vụ văn hóa: các gia đình có thể tự do 
lựa chọn các tour du lịch, nhà hàng, khách sạn theo ý thích 
nhưng một số kẻ đã lợi dụng các thông tin trên mạng để 
lừa đảo như: book vé máy báy chuyển tiền trước nhưng đến 
sân bay không có vé, đặt nhà hàng, khách sạn nhưng ăn 
uống, ở, đi lại không đúng như trong quảng cáo, hợp đồng. 
Trong các đám cưới ở thành phố, đa số mời những người 
có tiền, có địa vị ở các nhà hàng sang trọng như để thể hiện 
đẳng cấp chứ không còn là niềm vui hỷ của cả dòng họ. 
Việc tang gia bối rối đã dần mất đi chữ nghĩa và tình: thuê 
người khóc mướn, không tổ chức tang lễ tại nhà, nhanh 
chóng đưa tang, thậm chí còn “check in” tươi cười trong 
đám ma (thuê trọn gói). 
4. KẾT LUẬN 
Nghiên cứu này đã chỉ ra thực trạng về mảng ghép loại 
hình dịch vụ gia đình trong bức tranh tổng thể về các loại 
hình dịch vụ trong nền kinh tế Việt Nam. Dịch vụ gia đình 
đã và đang phát triển mạnh mẽ về quy mô và thể loại, đây 
cũng là tất yếu khách quan trong bối cảnh Việt Nam đang 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 46.2018 160
KINH TẾ
hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng. Các loại hình dịch vụ 
gia đình đã và đang giúp cho sinh hoạt gia đình ngày càng 
trở nên thuận tiện, hiệu quả. Trong xu thế toàn cầu hóa, 
Việt Nam đã gia nhập WTO, FTA... vì vậy, thị trường dịch vụ 
gia đình có nhiều cơ hội để phát triển, tuy nhiên yếu tố 
cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt. Chính vì vậy, để hội 
nhập trong khu vực và thế giới, các loại hình dịch vụ gia 
đình cần được sự quan tâm từ cấp Trung ương đến địa 
phương và sự chung tay hành động của toàn xã hội. Bên 
cạnh đó, cần tiếp tục duy trì, thực hành các nguyên tắc đạo 
đức đối với thế hệ trẻ trong quá trình này. Có như vậy, các 
loại hình dịch vụ gia đình mới phát huy tối đa hiệu quả, 
không ngừng nâng cao chất lượng sống cho gia đình Việt 
Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu này còn hạn chế, chỉ áp dụng 
các phương pháp nghiên định tính mà chưa có nghiên cứu 
định lượng để đo lường sự tác động của các yếu tố đến xã 
hội hóa các dịch vụ gia đình, đây cũng chính là hướng 
nghiên cứu tiếp theo của tác giả trong tương lai./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc 
lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 29. 
2. Nguyễn Văn Quang, (2010). Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa cung 
ứng dịch vụ công ở Việt Nam. Đề tài khoa học cấp trường, Đại học Luật Hà Nội, 
LH-08-06-ĐHLHN. 
3. Phạm Ngọc Trung, (2016). Loại hình dịch vụ gia đình ở Việt Nam dưới 
góc nhìn văn hóa. Tạp chí điện tử Văn hiến Việt Nam, 
van-hoa-47032 

File đính kèm:

  • pdfxa_hoi_hoa_cac_dich_vu_gia_dinh_o_viet_nam.pdf