Về kết cấu kép ở trung tâm của truyền thuyết hệ thần Liễu Hạnh qua khảo sát thần Tích Đệ Tam Tiên chúa được phụng thờ ở Nga Sơn và Nghĩa Hưng

Tam thế luân hồi, vu Vỉ Nhuế vu Vân Cát vu Nga Sơn, ngũ bách dư niên

quang thực lục.

(Một vế trong câu đối dâng Phủ Tiên Hương vào năm 1853 của Tổng đốc

Thanh Hóa Lê Hy Vĩnh; cũng được chép trong sách Cát thiên tam thế thực lục bản

in khắc gỗ năm 1913).

Sinh hóa suốt ba phen, trinh hiếu gương treo miền quận Bắc,

Tinh thần năm trăm lẻ, anh linh bóng rọi chốn thành Nam.

(Câu đối viết bằng chữ Nôm của Hội Đào Chi ở Huế khắc ở lăng mẫu Liễu

Hạnh tại Phủ Giầy - vào năm 1938, khi hội hoàn tất việc xây dựng lăng. Tương

truyền lăng mẫu có liên quan tới việc cầu tự của vua Bảo Đại triều Nguyễn).

Lời mở: Đi về giữa hai miền Nga Sơn và Nghĩa Hưng

Hai địa danh “Nga Sơn” (Thanh Hóa) và “Nghĩa Hưng” (Nam Định), trong

các nghiên cứu mới gần đây, được chỉ ra là hai vùng đất cơ bản trong hệ thống

truyền thuyết tam thế luân hồi (hay tam độ hóa sinh, tam thế giáng sinh) của Mẫu

Liễu (Bà chúa Liễu Hạnh, chúa Liễu, công chúa Liễu Hạnh). Nghĩa Hưng 義興

“phủ Nghĩa Hưng” thuộc trấn Sơn Nam (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay). Nga Sơn

峩山 là “huyện Nga Sơn” thuộc phủ Hà Trung tỉnh Thanh Hóa.

Nghĩa Hưng ở vùng Sông Đáy, gắn với hai lần giáng sinh đầu trong truyền

thuyết. Lần thứ nhất là xuống làng Vỉ Nhuế ở huyện Đại An (nay quen gọi là Phủ

Nấp ở huyện Ý Yên). Lần thứ hai là xuống làng Vân Cát ở huyện Thiên Bản (nay

quen gọi là Phủ Giầy/Dầy ở huyện Vụ Bản). Về mặt hành chính thì hai huyện Đại

An và Thiên Bản vốn đều nằm trong cùng một phủ Nghĩa Hưng.(1) Nghĩa Hưng là

một địa danh quen thuộc, thường xuất hiện trong dòng thơ quốc âm hay trong văn

chầu liên quan đến sự tích Mẫu Liễu giáng trần, khi là “miền Nghĩa Hưng” (trong

sách Cát thiên tam thế thực lục), khi là “phủ Nghĩa Hưng” hay “Nghĩa Hưng -

Thiên Bản” (trong sách Chư vị văn chầu). (2)

pdf36 trang | Chuyên mục: Văn Hóa - Nghệ Thuật | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 194 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Về kết cấu kép ở trung tâm của truyền thuyết hệ thần Liễu Hạnh qua khảo sát thần Tích Đệ Tam Tiên chúa được phụng thờ ở Nga Sơn và Nghĩa Hưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
guyễn Hoàng Hồng ở xóm Nga Châu 
xã Hà Châu huyện Hà Trung (bản gốc đã nát nhiều, bìa ngoài cũng đã nát, ở cuối có ghi tên 
người sao chép là Nguyễn Tất, sao năm Khải Định 6 tức năm 1921; xem và chụp tại gia đình 
ngày 8/5/2011).
29. Tư liệu Hán Nôm của dòng họ 2, Không rõ năm tháng sao chép, Đệ tam tiên chúa ngọc 
phả 第三僊主玉譜 (bên trong ghi Tam Giáp đệ tam vị tiên chúa ngọc phả). Văn bản gồm 
6 trang giấy dó bút lông khổ nhỏ hiện lưu tại nhà ông Mai Chính (trưởng chi hai họ Mai; 
ngụ tại đường Trần Huy Liệu, TP Nam Định; tình trạng văn bản khá tốt, xem và chụp ngày 
17/8/2011).
30. Tư liệu Hán Nôm của dòng họ 3, không rõ năm tháng sao chép, Phụng độc Đệ tam tiên chúa 
văn tịnh dẫn (bìa ngoài màu nâu). Văn bản gồm 18 trang giấy dó bút lông khổ nhỏ hiện lưu 
tại nhà ông Mai Chính (bản gốc đã hư hại nhưng vẫn đọc rõ các trang, đóng quyển bị lộn 
trang; xem và chụp ngày 17/8/2011).
31. Tư liệu Hán Nôm của dòng họ 4, không rõ năm tháng, Tập văn khấn của họ Nguyễn Hoàng 
ở Nga Châu xã Hà Châu huyện Hà Trung, gồm 7 trang chữ Hán viết xấu (tên tạm định, vì 
văn bản vốn không có tiêu đề, trong có nêu tên Liễu Hạnh Mã Vàng công chúa và tổ cô 
Hoàng thị Quế Hoa công chúa; bản gốc hiện lưu tại nhà cụ Nguyễn Hoàng Thước/Nguyễn 
Hoàng Hồng; xem và chụp ngày 8/5/2011).
32. Tư liệu Quốc ngữ của dòng họ 1, không rõ năm tháng, Hoàng tộc gia phả gồm 6 trang (Tư 
liệu viết tay trên giấy kẻ ô-ly vốn không đánh số trang, xem và chụp tại từ đường họ Hoàng 
ở thôn Tây Mỗ xã Hà Thái ngày 8/5/2011).
33. Tư liệu Quốc ngữ của dòng họ 2, 2007, Gia phả họ Mai gồm 50 trang tiếng Việt (Tư liệu viết 
tay vốn không đánh số trang, xem và chụp tại từ đường họ Hoàng ở thôn Tây Mỗ xã Hà Thái 
ngày 8/5/2011).
34. Tư liệu Quốc ngữ của dòng họ 3, không rõ năm tháng, “Trích lược gia phả chi họ Mai ở 
Thạch Giản Nga Sơn Thanh Hóa” (Mai Vân kính ghi chép). Tư liệu đánh máy gồm 3 trang 
khổ A4 (Bản gốc hiện lưu tại đền thờ Thám hoa Mai Anh Tuấn; xem và chụp ngày 11/6/2011).
35. Tư liệu Quốc ngữ của dòng họ 4, 1961 (sao lục), “Ngọc phả đức Đệ tam vị Tiên chúa làng 
Giáp Ba xã Bảo Ngũ Vụ Bản”. Tư liệu viết tay trên giấy kẻ ô-ly bằng mực tím gồm 4 trang 
khổ nhỏ hiện lưu tại nhà ông Mai Chính (bản gốc đã hư hại nhưng vẫn đọc khá rõ; cuối văn 
bản ghi thời gian sao lục là 2/10/1961; xem và chụp ngày 11/6/2011). 
36. Tư liệu Quốc ngữ của dòng họ 5, không rõ năm tháng, “Sự tích đức tiên chúa” (tên tạm 
định, do văn bản không mang tiêu đề). Tư liệu viết tay bằng bút bi trên giấy kẻ ô-ly gồm 20 
trang khổ nhỏ (bản gốc hiện lưu tại Phủ Tổ thuộc thôn Giáp Ba xã Quang Trung huyện Vụ 
Bản tỉnh Nam Định, gia đình bà Nguyễn Thị Nuôi - con là Mai Hữu Hồng; xem và chụp ngày 
17/8/2011).
37. Tư liệu Quốc ngữ ở địa phương 1, 2002, “Lược sử Thánh mẫu Liễu Hạnh công chúa” (Tư 
liệu viết tay gồm 4 trang trong sổ tay của ông Vũ Chương ở xã Hà Thái huyện Hà Trung, 
xem và chụp ngày 7/5/2011).
49Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
38. Tư liệu Quốc ngữ ở địa phương 2, 2002, “Văn thánh mẫu đại vương Bà Liễu Hạnh” (Tư liệu 
viết tay gồm 2 trang trong sổ tay của ông Vũ Chương ở xã Hà Thái huyện Hà Trung, xem và 
chụp ngày 7/5/2011).
39. Tư liệu Quốc ngữ ở địa phương 3, 2002, “Vân Cát thần nữ” (Tư liệu viết tay gồm 4 trang 
trong sổ tay của ông Vũ Chương ở xã Hà Thái huyện Hà Trung, xem và chụp ngày 7/5/2011).
40. Tài liệu Quốc ngữ ở địa phương 4, 2007, Sưu tầm (Người viết là Vũ Năng Tổng, người chịu 
trách nhiệm là Vũ Chương). Tư liệu viết tay trên giấy khổ A4 gồm 16 trang ghi ngày tháng 
và nơi biên soạn là “Tây Mỗ ngày 1 tháng 12.2007”, bản gốc hiện lưu ở Hội Người cao tuổi 
và Ban Văn hóa xã Hà Thái.
41. Tài liệu Quốc ngữ ở địa phương 5, Phủ Mỗ nơi thờ Đệ tam thiên tiên Hoàng thị Quế Hoa 
công chúa (Vũ Thị Hường, Ban Quản lý Di tích và Danh thắng Thanh Hóa biên soạn). Tài 
liệu chế bản trên giấy khổ A4 gồm 30 trang (nhận một bản sao vào ngày 7/5/2011 từ Ủy ban 
Nhân dân xã Hà Thái).
42. Tư liệu Quốc ngữ ở địa phương 6, 2003, Sự tích Thành hoàng Thánh mẫu có công làng 
Nga Châu thờ (Ban sưu tầm biên tập làng Nga Châu xã Hà Châu, Phạm Tuấn - Ban Quản 
lý Di tích và Danh thắng Thanh Hóa). Tài liệu chế bản điện tử trên giấy khổ A4 gồm 8 trang 
có đóng dấu xác nhận và dấu giáp lai của Ban Quản lý Di tích và Danh thắng Thanh Hóa.
43. Tư liệu Quốc ngữ ở địa phương 7, 2006, Sự tích đền Thánh mẫu Nga Châu năm Bính Tuất 
2006 (Phạm Xuân Thuế trưởng ban, Lê Hữu Căn sưu tầm biên soạn), Tài liệu chế bản điện 
tử trên giấy khổ A4 gồm 13 trang. 
44. Tư liệu Quốc ngữ ở địa phương 8, không rõ năm tháng, “Lược sử Thánh mẫu Liễu Hạnh 
công chúa”. Ghi chép cá nhân gồm 3 trang viết tay của bà Nguyễn Thị Đỗ ở Tây Mỗ (xem 
và chụp ngày 8/5/2011 tại từ đường họ Hoàng thôn Tây Mỗ xã Hà Thái).
45. Tư liệu Quốc ngữ ở địa phương 9, không rõ năm tháng, “Vân Cát thần nữ, Văn hóa dân 
gian, Bà chúa Liễu Hạnh”. Ghi chép cá nhân gồm 2 trang viết tay của bà Nguyễn Thị Đỗ ở 
Tây Mỗ (xem và chụp ngày 8/5/2011 tại từ đường họ Hoàng thôn Tây Mỗ xã Hà Thái).
46. Tư liệu Quốc ngữ ở địa phương 10, 1996-2004, Văn Nôm gồm 66 trang. (Ghi chép cá nhân 
viết tay trên giấy kẻ ô-ly của bà Lê Thị Nông vốn không đánh số trang, ghi dần từ năm 1996 
đến năm 2004, xem và chụp ngày 8/5/2011 tại từ đường họ Hoàng thôn Tây Mỗ xã Hà Thái). 
47. Tư liệu Quốc ngữ ở địa phương 11, không rõ năm tháng, “Vân Cát thần nữ”. Ghi chép gồm 
4 trang trong sổ tay của ông Lê Văn Thát ở thôn Tây Mỗ/Bùi Sơn xã Hà Thái (xem và chụp 
ngày 7/5/2011 tại khuôn viên Phủ Tây Mỗ).
48. Tư liệu Quốc ngữ ở địa phương 12, “Lễ kỵ Mẫu”. Ghi chép gồm 3 trang trong sổ tay của ông Lê 
Văn Thát ở thôn Tây Mỗ xã Hà Thái (xem và chụp ngày 7/5/2011 tại khuôn viên Phủ Tây Mỗ).
49. Tư liệu Quốc ngữ ở địa phương 13, 2005, Phủ Bất Di thần tích Quảng Cung tiên chúa Quế 
Anh. Văn bản chế bản điện tử gồm 9 trang khổ nhỏ và 2 trang khổ to hiện lưu tại Ban Quản 
lý Phủ Bất Di xã Quang Trung huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định (ngoài bìa có xác nhận bằng 
chữ ký và con dấu của Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam Dương Trung Quốc 
về việc đã nhận văn bản thần tích có tên nêu trên, đề ngày 15/6/2005; xem và chụp ngày 
25/6/2011).
50. Tư liệu Viện Thông tin Khoa học Xã hội 1, “Thần tích Thần sắc thôn Giáp Ba làng Bảo Ngũ 
tổng Bảo Ngũ huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định”. Tư liệu mang ký hiệu TTTS 6900 (bên trong 
đánh số trang bằng bút mực từ 822-849) có phần trên là Quốc ngữ và phần dưới là chữ Hán.
50 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
51. Tư liệu Viện Thông tin Khoa học Xã hội 2, “Thần tích Thần sắc làng Bất Gi tổng Bảo Ngũ 
huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định”. Tư liệu mang ký hiệu TTTS 6896 (bên trong đánh số trang 
bằng bút mực) có phần trên là Quốc ngữ và phần dưới là chữ Hán.
52. Tư liệu Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm 1, Thanh Hoa chư thần lục 清華諸神錄, 382 
trang, Bản sao năm Thành Thái 15 (1903), ký hiệu VHv.1290. 
TÓM TẮT
 Trong những năm gần đây, bằng việc phát hiện trở lại cuốn sách Cát thiên tam thế thực 
lục khắc in năm 1913 và những di văn liên quan ở Phủ Nấp (Vỉ Nhuế) huyện Ý Yên tỉnh Nam 
Định - một ngôi đền cách Phủ Giầy khoảng mười cây số - giới nghiên cứu đang chú ý đến hệ 
thống truyền thuyết tam thế luân hồi hay tam thế giáng sinh của Mẫu Liễu. Trong hệ thống này, 
lần giáng sinh thứ nhất của Mẫu Liễu được xem là ở Vỉ Nhuế (Phủ Nấp), lần thứ hai mới là Vân 
Cát (Phủ Giầy), và lần thứ ba là Tây Mỗ (Nga Sơn). Cần nhấn mạnh rằng, đây là hệ thống khác 
với hệ thống vốn quen biết lâu nay trong học giới gắn chặt với tác phẩm Vân Cát thần nữ truyện 
của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. 
 Tiếp nối những nghiên cứu về lần giáng sinh thứ nhất ở Vỉ Nhuế, bài viết này lần đầu tiên 
công bố kết quả khảo sát điền dã về lần giáng sinh thứ ba ở Nga Sơn. Sau khi tổng hợp, giám 
định, và phân tích tư liệu văn bản thu thập được từ thực địa ở Thanh Hóa và Nam Định, bài viết 
đưa tới hai điểm mang tính lý luận như sau. Một là, đề xuất thuật ngữ “tổ hợp thần Liễu Hạnh” 
hay “hệ thần Liễu Hạnh”. Hai là, luận giải về kết cấu kép ở trung tâm của truyền thuyết hệ thần 
Liễu Hạnh. Hiện tại, do tính kết cấu kép ở trung tâm, chúng tôi nhận thấy rằng, Đệ tam tiên chúa 
(tức Quế Hoa công chúa, sau thành Quế Anh phu nhân) có xuất thân ở vùng Nga Sơn (Thanh 
Hóa) đồng thời vừa là vị tiên chúa thứ ba (trong bộ ba vị tiên chúa), lại vừa là lần giáng sinh thứ 
ba của chính Liễu Hạnh.
ABSTRACT
ON DUAL STRUCTURE IN THE CENTERS OF THE LEGEND OF THE “SYSTEM OF 
GODDESS LIỄU HẠNH”: ABOUT THE SURVEY OF LEGENDS ON THE THIRD GODDESS 
WORSHIPPED IN NGA SƠN AND NGHĨA HƯNG
In recent years, on rediscovering the book Cát thiên tam thế thực lục engraved in 1913 
and related writings at Phủ Nấp temple (Vỉ Nhuế), Ý Yên district, Nam Định Province, about ten 
kilometers from Phủ Giầy temple, researchers are paying attention to the system of tam thế luân 
hồi (three cycles of samsara) or tam thế giáng sinh (three times of birth). In this system, the first 
birth of Mother Goddess Liễu Hạnh is said to be in Vỉ Nhuế (Phủ Nấp temple), the second is in 
Vân Cát (Phủ Giầy temple), and the third is in Tây Mỗ (Nga Sơn). It should be emphasized that 
this system is different from that of the story Vân Cát thần nữ truyện by Đoàn Thị Điểm.
Following closely studies on the first birth of Liễu Hạnh in Vỉ Nhuế, this article first publicize 
the results of the field survey on her third birth in Nga Sơn. After synthesizing, surveying, and 
analyzing documents collected from field trips in Thanh Hóa and Nam Định, the article presents 
two theoretical arguments; firstly, the term “group of Goddess Liễu Hạnh” or “system of Goddess 
Liễu Hạnh”; secondly, the interpretation of dual structure in the core of the legend of the “system 
of Goddess Liễu Hạnh”. At present, due to the dual structure, we find that The Third goddess 
(Princess Quế Hoa, then Lady Quế Anh) who came from Nga Sơn (Thanh Hóa Province) was the 
third goddess (in the triad of Goddesses) and also the third birth of Goddess Liễu Hạnh herself.

File đính kèm:

  • pdfve_ket_cau_kep_o_trung_tam_cua_truyen_thuyet_he_than_lieu_ha.pdf