Trên cả lý thuyết - Những bài học kinh doanh Steve Jobs để lại cho thế giới (Phần 1)
Lời tựa
Chương 1 Người lựa chọn sản phẩm: Chiến lược quyết định vận mệnh của
doanh nghiệp
Chương 2 Hơn cả lí thuyết kinh doanh: Lựa chọn hình thức thương mại
chính là lựa chọn tương lai cho doanh nghiệp
Chương 3 Xây dựng sức hút Apple: Sức hấp dẫn từ sản phẩm độc đáo
Chương 4 Dùng sự sáng tạo thay đổi thế giới: Sáng tạo không ngừng là
động cơ giúp Apple vươn lên dẫn đầu thế giới
Chương 5 Phương pháp quản lí của thuyền trưởng cướp biển: Hiểu rõ về
con người còn quan trọng hơn kĩ thuật
Chương 6 Dùng nhân tài sáng tạo ra sản phẩm giá trị: Apple không phải là
sản phẩm, mà là tác phẩm nghệ thuật tinh xảo của doanh nghiệp
Chương 7 Khả năng thực thi hoàn hảo: Biến tất cả thành có thể
Chương 8 Tạo ra sự cạnh tranh: Ván cờ không có khói thuốc súng không
phải là chiến tranh
Chương 9 Con đường tương lai của Apple
PHỤ LỤC Kì tích của Apple
có gần 50.000 nhân viên, có khoảng 10.000 người làm việc ở các cửa hàng bán lẻ. Công việc của tôi là hợp tác với 100 nhân viên cấp cao. Không phải tất cả họ đều là phó giám đốc, có một số người chỉ là nhân viên nghiên cứu chủ chốt. Vì thế, khi một điểm tốt xuất hiện thì một trong những công việc của tôi chính là để mọi người nhìn ra được nó, tìm hiểu cách nhìn của những người khác nhau, để mọi người triển khai thảo luận, thậm chí là biện luận, để 100 người này giao lưu tư tưởng”. Khác với những ông chủ không thích nhân viên đưa ra ý kiến bất đồng với mình, điều mà Jobs hi vọng nhìn thấy nhất chính là các anh tài dưới quyền mình thách thức lẫn nhau trong cuộc họp, từ đó khiến sản phẩm thêm hoàn thiện, hoàn mĩ. Cùng họp với Jobs đối với nhiều người chẳng khác nào được thử thách trong một cuộc chiến khốc liệt. Ông sẽ thách thức bất kì ai trong buổi họp, đồng thời thái độ không hề thân thiện chút nào, thường là thô lỗ cực độ. Cuộc họp ngày thứ Hai mà Jobs kiên trì duy trì trên thực tế chính là một buổi thảo luận đầy khó khăn. Trong một cuộc họp ngày thứ Hai của Apple, Jobs bày tỏ hứng thú của mình với kĩ thuật con chíp mới nhất mà Intel đang khai thác, nhưng Hordy - người phụ trách công việc thiết kế ở Apple lại có cách nhìn khác về kĩ thuật này, đồng thời vì thế mà phát sinh tranh cãi gay gắt với Jobs. Đến tối, Jobs đã chặn Hordy lại khi ông ta chuẩn bị về nhà, tiếp tục phản bác quan điểm mà Hordy đưa ra trong cuộc họp, nhưng lần này Jobs có vẻ kiên quyết hơn rất nhiều. Về sau Hordy mới hiểu, thì ra Jobs vừa gọi một cuộc điện thoại cho Andrew S.Grove, chủ tịch hội đồng quản trị của công ty Intel, hỏi ông ta về quan điểm mà Hordy đề cập tới. “Nếu bạn là một người bảo sao nghe vậy, chắc chắn bạn sẽ chết trong tay Steve, bởi vì ông ấy vô cùng tự tin với những việc mình đã biết, vì thế ông ấy cần người khác có thể thách thức ông ấy. Dĩ nhiên, bạn cũng đừng hòng dọa nạt một người bất cứ lúc nào cũng có thể nhấc điện thoại lên nói chuyện với Andrew”. Nhắc tới câu chuyện này, Hordy không khỏi bật cười. Trong cuộc họp ngày thứ Hai, Jobs thường sẽ ép những nhân viên khác phục tùng ý kiến của mình. Nhưng nếu người khác kiên trì với suy nghĩ của mình, Jobs sẽ yêu cầu họ chứng minh, qua đó khảo nghiệm những người khác trong nhóm có thực sự hiểu rõ thứ mà mình đang nắm được hay không, có luận cứ chắc chắn hay không. Với Jobs, nếu những người tham gia cuộc họp càng kiên trì với cách nhìn của bản thân thì họ sẽ càng có khả năng làm đúng. Cho dù là một doanh nghiệp lớn hàng đầu trong ngành như Apple hay doanh nghiệp nhỏ chỉ có vài nhân viên đến mười mấy nhân viên thì chế độ cuộc họp thường lệ, đặc biệt là cuộc họp hàng tuần cũng đều vô cùng cần thiết. Có vẻ như phần lớn lãnh đạo doanh nghiệp chưa ý thức được lợi ích của việc mở cuộc họp hàng tuần kiểu như Jobs. Thực ra, ngoài những lợi ích mà Jobs đã nói thì cuộc họp hàng tuần còn có tác dụng khác nữa: 1. Khắc phục sức ỳ của nhân viên Sức ỳ là một trong những bản tính của con người, mỗi người đều có sức ỳ, chỉ là nhiều hay ít mà thôi. Một nhân viên làm việc ở nguyên một vị trí càng lâu thì sức ỳ sẽ càng lớn. Lâu dần, rất dễ biến thành cẩu thả. Nếu không có áp lực từ bên ngoài, rất ít nhân viên sẽ chủ động, tích cực suy nghĩ, tổng kết, kiểm điểm công việc của mình. Cuộc họp hàng tuần sẽ là một phương thức tạo áp lực rất tốt, bắt buộc các nhân viên phải tổng kết và kiểm điểm công việc của mình. Điều đó cũng thích hợp với người lãnh đạo doanh nghiệp. 2. Tăng cường giao lưu trong đội ngũ Thông thường, người lãnh đạo doanh nghiệp khá bận, cơ hội thực sự được giao lưu với nhân viên khá ít, cho dù có lúc ngồi xuống tâm sự, bàn công việc với nhân viên nhưng vẫn tồn tại sự khác biệt rất lớn so với với cách giao tiếp chính thức như cuộc họp hàng tuần. Thực ra cuộc họp hàng tuần là một nơi giao lưu chính thức giữa nhân viên với nhân viên, nhân viên với người lãnh đạo. Ở đây mọi người có thể nói những điều mình muốn, đi sâu giao lưu về nội dung công việc quan trọng và những vấn đề trong công việc bình thường. Hiệu quả này rất khó có thể đạt được trong những cuộc giao lưu không chính thức. 3. Tăng thêm sức ngưng tụ và sức cạnh tranh trong đội ngũ Nếu một công ty hoàn toàn không sinh hoạt đoàn thể, không mở cuộc họp hàng tuần thì rất có thể sẽ dẫn đến tình trạng nhân viên thiếu đi cảm giác đoàn kết và gắn bó với doanh nghiệp. Đó là biểu hiện rõ rệt của một doanh nghiệp thiếu tính đoàn kết hiệp đồng. Đồng thời, cuộc họp hàng tuần cũng là một nơi học tập rất tốt, một số nhân viên tiên tiến có thể tiến hành giao lưu và chia sẻ kinh nghiệm với các đồng nghiệp, đi sâu thảo luận nội dung công việc trọng điểm. Đó đều là con đường để nhân viên học tập và tiến bộ. Chỉ có đội ngũ duy trì được trạng thái không ngừng học tập thì mới có thể trở thành đội ngũ có sức cạnh tranh tốt. KHÍCH LỆ SỞ HỮU CỔ PHẦN CỦA HÃNG Ở Apple, chúng tôi cho tất cả nhân viên sở hữu cổ phiếu từ rất sớm, chúng tôi là một trong những công ty đầu tiên ở Thung lũng Silicon thực hiện chế độ cổ phiếu. Khi quay lại Apple, tôi đã xóa bỏ phần lớn tiền thưởng, thay vào đó là thưởng cổ phần. Steve Jobs Năm 1985, sau khi Jobs bị ép rời khỏi Apple, hãng này bắt đầu gặp phải hàng loạt khó khăn. Sau khi mất đi “thuyền trưởng cướp biển” đầy nhiệt tình, đam mê, nội bộ Apple nhanh chóng gặp trục trặc, các nhân viên bắt đầu dần dần mất đi nhiệt tình đối với công việc. Họ không còn tích cực làm việc như trước, cả hãng dần trở nên lười biếng và buông thả. Năm 1997, Jobs quay lại Apple. Sau khi tìm hiểu hiện trạng của hãng, ông lập tức xóa bỏ phần lớn tiền thưởng của nhân viên, chuyển sang thay thế bằng cổ phiếu. Thông qua việc khiến nhân viên trở thành cổ đông của hãng, gắn kết tiền đồ của họ với số phận của Apple, Jobs đã khiến hầu hết các nhân viên của hãng đều đồng thời có tiền lương và cổ phiếu, bây giờ nhìn lại, đó là một phương thức quản lí vô cùng thông minh. Vào thời điểm Jobs vừa quay về Apple, do tình hình hoạt động của hãng không tốt nên rất nhiều nhân viên có ý định rời khỏi Apple, vì chuyện đó Jobs đã hao tốn rất nhiều tinh lực. Để khôi phục tinh thần làm việc tích cực, giữa ông và hội đồng quản trị đã nổ ra một cuộc tranh luận gay gắt, ông nỗ lực thuyết phục họ bán cổ phiếu cho nhân viên với giá thấp. Cuối cùng, Apple đưa ra một kế hoạch mua cổ phiếu rất được chào đón, tức là nhân viên có thể dùng tiền lương của mình để mua cổ phiếu được chiết khấu, đồng thời giá cổ phiếu này là giá thấp nhất trong vòng sáu tháng trước ngày mua. Kết quả là nhân viên Apple có được lợi nhuận hậu hĩnh từ cổ phiếu. Do có được phúc lợi cổ phiếu nên lợi ích kinh tế của nhân viên Apple gắn bó mật thiết với hãng. Đối với phần lớn nhân viên mà nói, đó chính là nguyên nhân trực tiếp thôi thúc họ phấn đấu để xây dựng và bảo vệ lợi ích của hãng. Có một số nhân viên đã mạnh dạn tố giác những nhân viên đã tiết lộ kế hoạch sản phẩm cho truyền thông, bởi vì ngăn chặn được hành vi này thì họ sẽ có được lợi ích nhất định. Quyền chọn chứng khoán là một vũ khí khích lệ mang tính chiến lược. Trong rất nhiều công ty, khích lệ bằng cổ phần được sử dụng rộng rãi, hơn nữa chỉ tiêu thành tích không hề quan trọng. Khích lệ cổ phần giống như tấm séc thu hút nhân tài, khiến rất nhiều người ý thức được sự gắn bó của bản thân đối với công ty. Nếu trong tương lai, thành tích của công ty không tốt thì lời hứa quyền chọn cũng không thể thực hiện. Tuy nhiên, khích lệ bằng cổ phần không phải là chìa khóa vạn năng mà là con dao hai lưỡi, sử dụng đúng đắn thì có thể khiến doanh nghiệp luôn phát triển theo hướng tích cực, còn nếu bị lạm dụng hoặc bóp méo thì sẽ khiến doanh nghiệp gặp tổn thất rất lớn. Giá cổ phiếu và lợi ích cá nhân của người quản lí gắn liền với nhau, khi số lợi nhuận càng nhiều thì sự tham lam sẽ được biểu hiện ra ngoài, và như thế sự khích lệ thông qua cổ phần cũng sẽ thể hiện mặt trái của nó. Vụ án công ty Enron – công ty năng lượng hàng đầu phá sản gây chấn động toàn cầu năm 2001, cuối cùng kết thúc bằng việc cựu chủ tịch Jeffrey Skilling bị tuyên phạt tù 24 năm 4 tháng. Cấp quản lí của công ty này vì muốn có được quyền chọn nên đã nhiều lần giấu giếm các giao dịch liên quan và công bố thông tin, đồng thời dùng thủ đoạn làm giả tài chính để đẩy cao giá cổ phiếu, trở thành vụ án đáng xấu hổ do tập thể quản lí cấp cao phạm tội làm giả lớn nhất trên thị trường chứng khoán thời ấy. Số là năm 1986, công ty Enron tiến hành khích lệ quyền chọn cổ phần với cấp quản lí trên cơ sở giá thị trường, nhằm khiến thành tích của nhân viên quản lí cấp cao gắn kết chặt chẽ với tài sản được tạo ra của cổ đông. Trước quyền lợi hấp dẫn này, quản lí cấp cao của Enron bắt đầu nghĩ cách xem làm thế nào để tiếp tục tìm kiếm cơ hội mở rộng quy mô, đồng thời duy trì tính ổn định của tăng trưởng lợi nhuận để đảm bảo thực hiện quyền chọn cổ phiếu của cấp quản lí. Sau năm 1997, cấp quản lí cấp cao của Enron bí quá hóa liều, lợi dụng giao dịch liên quan với doanh nghiệp, đồng thời ra sức sử dụng các thủ đoạn tài chính, sử dụng công cụ biến đơn giản thành phức tạp để “vẽ ra” lợi nhuận, làm báo cáo tài chính giả mạo hòng đạt mục đích nhanh chóng tăng cổ phần, thu được lợi ích lớn nhất. Vì sức cám dỗ to lớn của khích lệ bằng cổ phần nên quản lí của Enron đã đánh mất đi đạo đức và niềm tin cần có của người kinh doanh, vì muốn tạo ra thành tích cao mà đã không từ thủ đoạn, cuối cùng khiến Enron sụp đổ, làm cho hàng ngàn hàng vạn người đầu tư bị tổn thất, tín dụng của thị trường tài chính Mĩ bị xáo động. Vụ án này cho thấy, khích lệ bằng cổ phần có mặt trái của nó, doanh nghiệp cần thận trọng khi sử dụng liều thuốc kích thích này, phải suy nghĩ thật kĩ và đặt lợi ích lâu dài của doanh nghiệp lên hàng đầu.
File đính kèm:
- tren_ca_ly_thuyet_nhung_bai_hoc_kinh_doanh_steve_jobs_de_lai.pdf