Tìm hiểu địa danh Tây Nam Bộ qua thể loại văn vần dân gian

TÓM TẮT

Nghiên cứu dấu ấn địa danh được phản ánh qua thể loại văn vần dân gian sẽ

giúp hiểu rõ hơn nhân sinh quan, thế giới quan của cư dân Tây Nam Bộ. Qua đó,

chúng ta hiểu hơn về tâm tư, tình cảm, ước mơ, khát vọng. của con người Tây Nam

Bộ trong suốt tiến trình lịch sử mở và dựng nước. Như một nguồn cứ liệu đặc biệt,

địa danh đã đi vào bộ phận văn học này một cách tự nhiên nhưng chứa đựng nhiều

giá trị độc đáo như một cách lưu giữ văn hóa.

pdf7 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 360 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Tìm hiểu địa danh Tây Nam Bộ qua thể loại văn vần dân gian, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
 ISSN 2354-1482 
91 
Thuận buồm gió thổi lai rai, 
Phút đâu đã thấy Hòn Tay, Ghềnh Bà4. 
Buông lèo một đỗi vừa xa, 
Đồi Mồi
5
 nằm nước, dựa kề Bà Chơn. 
Vui thay một cảnh Tà Lơn6, 
 Mây vừng ấp núi, khói vàng lên non. 
 Ngó ra Cồn Lớn giữa dòng, 
 Linh đinh Hòn Chảo7, dật dờ Bãi Thơm8. 
 Ngó lên Hòn Đá Mọc khéo đơm, 
 Hòn Nần chạy tới Hòn Ngang, 
 Hòn Ông, Rạch Lá thì mình phải âu. 
 Éo le nhiều nỗi thêm sầu, 
 Trăng mờ bóng xế, đêm thâu canh dài.” 
 (Vè Đi biển) 
“Ba Hòn Nồm nó chồm về Hòn Nấu, 
Hòn Nấu nó cấu qua Đôi Nai. 
Đôi Nai nó lai rai về Bờ Đập, 
Hai Bờ Đập nó cập về Hai Hòn Lò. 
Hai Hòn Lò nó mò về Hòn Ngang, 
Hòn Ngang nó sang về hai Hòn Đụng. 
4
 Ghềnh Bà còn gọi là Gành Bà thuộc xã Tây Hòa tỉnh Phú Yên. 
5
 Cụm đảo thuộc tỉnh Cà Mau bao gồm 5 hòn đảo sát nhau: Hòn Khoai, Hòn Sao, Hòn Đồi Mồi, Hòn 
Đá Lẻ, Hòn Tương với tổng diện tích 4 km2. Sở dĩ người dân địa phương gọi là Hòn Đồi Mồi vì đảo 
có hình dáng giống con đồi mồi. 
6
 Núi Tà Lơn (người Khmer gọi là Bokor – tức là con bò) thuộc tỉnh Kompot, Campuchia. 
7
 Khu vực đảo Hòn Chảo là vùng giáp ranh giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Vào thời Trần được đặt 
tên là đảo Huyền Trân để tưởng nhớ đến công chúa Trần Huyền Trân, người đã mang về cho Đại Việt 
2 châu Thuận, Hóa và thiên hạ đệ nhất hùng quan Hải Vân. Đến thời Tây Sơn, trong một chuyến đi 
dạo, vua Quang Trung đổi tên nó thành Đảo Ngọc vì thấy đảo quá đẹp. Đến đầu thời Nguyễn, đảo 
được gọi là cù lao Hàn. Sau đó, vua Minh Mạng ban tặng cho cái tên Ngự Hải Đài nghĩa là đài canh 
trên biển. Thời Pháp thuộc, được gọi là Hòn Sơn Chà (Trà). Hiện nay đảo có tên chính thức là Hòn 
Chảo, để tránh nhầm lẫn với bán đảo Sơn Trà ở Đà Nẵng, cách nơi này không xa. 
8
 Bãi Thơm có tên gọi Hòn Thơm. Hòn Thơm là một xã của huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang được 
thành lập từ năm 2003, dân số hiện tại trên đảo hơn 3.000 người. Hòn Thơm có tới 18 đảo lớn nhỏ, 
được ví von là ngọc của đảo ngọc Phú Quốc. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
92 
Hai Hòn Đụng nó cụng về Hòn Dầu, 
Hòn Dầu nó chầu về Bâu Áo. 
Bâu Áo nó tháo lại Hòn Ông, 
Hòn Ông nó dông về Hòn Dâm. 
Hòn Dâm đâm xuyên Hòn Tre, 
Hòn Tre nó xóc về Hòn Vông. 
Hòn Vông nó tông về Hòn Nhàn, 
Hòn Nhàn nó sang về Hòn Hàn. 
Hòn Hàn nó tràn về Hòn Lớn9, 
Hòn Lớn nó bắt trớn lại ba Hòn Nồm. 
Hòn Nồm nó chồm lên Hòn Khô, 
Hòn Khô thẳng vô Hòn Lớn. 
Hòn Lớn nó lỡ trớn tới Bãi Chệt10. ” 
(Vè Quần đảo Nam Du11) 
9
 Hòn Lớn (hòn đảo lớn nhất trong cụm đảo) tức Củ Tron. Theo Nam Du ký của nhà văn Anh Động về 
chuyện tích truyền khẩu của Hòn Củ Tron: “Vào năm 1870, sau khi thất thủ thành Gia Định lần thứ 2, 
Chúa Nguyễn Ánh cùng một đám tàn quân bị Tây Sơn truy đuổi ráo riết, phải tấp vào cụm hòn này lẩn 
trốn. Thiếu nước uống, Chúa bảo binh sĩ đào ao lấy nước ngọt. Hiện nay “Giếng Ngự”, “Bãi Ngự” vẫn 
hiện hữu phía tây bắc Hòn Lớn. Thiếu lương thực, người dân hướng dẫn binh sĩ đi đào củ nầng có 
dáng hình tròn tròn về nấu ăn đỡ đói. Đến khi Chúa lên ngôi hoàng đế (1802) chạnh nhớ đến những 
nơi nhiều kỷ niệm sâu sắc của mình thời bôn ba tẩu quốc, ông sắc tứ cho hòn này một cái tên, gọi là 
hòn “Củ Tròn”. Vị quan hành khiển vốn người Ngũ Quảng, mang chiếu chỉ đến đây, tập hợp dân lại 
đọc theo giọng Quảng của vị quân hành khiển, hai tiếng “củ Tròn” thành “Củ Tron” dân nghe chiếu 
dụ bảo “tron” thì phải gọi theo là “tron” đâu ai dám kháng chỉ”. Ngoài ra, địa danh này còn gọi là Cổ 
Tron, có gốc Khmer là koh Tron nghĩa là hòn, cồn, cù lao Tron. Còn Tron chưa biết nghĩa. 
10
 Theo dân gian truyền lại, vào thế kỷ 16, trên đường ra Phú Quốc buôn bán, giữa đoàn tàu Hà Lan và 
người Trung Quốc đã xảy ra một trận ác chiến, mấy hôm sau có hàng trăm xác người Trung Quốc tấp 
vào bãi này, từ đó người dân gọi là “Bãi Chệt”. 
11
 Nam Du gốc Nam Dự (dự là “đảo”, Nam Dự nghĩa là đảo phía nam). Dưới thời Pháp thuộc bị bỏ dấu 
gọi là Nam Du. Quần đảo Nam Du trực thuộc huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang, trước kia gọi chung 
là xã Nam Du. Dân số quần đảo Nam Du khoảng hơn 9.000 người. Tháng 5-2005, Nam Du tách ra thành 
một xã gồm 10 đảo, trụ sở xã đặt tại Hòn Ngang, còn xã kia là xã An Sơn, quản lý 11 đảo, trụ sở xã đặt 
tại Hòn Lớn - mà dân địa phương kêu bằng Hòn Củ Tron. Ngoài ra còn có dị bản khác: 
 “Hòn Mấu đâm thấu Đô Nai, 
Đô Nai quay sang Bờ Đập. 
Bờ Đập tấp lại Hòn Lò, 
Hòn Lò mò đến Hòn Ngang. 
Hòn Ngang tạt sang Hòn Đụng, 
Hòn Đụng cụng vào Hòn Dầu. 
Hòn Dầu nằm chầu Bỏ Áo, 
Bỏ Áo tháo ngược Hòn Ông. 
Hòn Ông dông đến Hòn Dâm, 
Hòn Dâm đâm thẳng Hòn Tre. 
Hòn Tre te đến Hòn Mốc, 
Hòn Mốc xốc lại Hòn Nhàn. 
Hòn Nhàn tràn thẳng Hòn Hàn, 
Hòn Hàn quàng cổ ba Hòn Nồm. 
Hòn Nồm chồm đại lên Hòn Khô, 
Hòn Khô vô Bãi Chệt. 
Bãi Chệt lết lên Hòn Lớn...” 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
93 
“Cái đầu đàng là Chợ Lớn, 
Bà con đương ớn là chợ Sài Gòn 
... 
Quần buộc không rành là chợ Bến Súc, 
Hay thúc giục là chợ Cà Mau12, 
Ở xứ nhiều lau đó là Chợ Lách13, 
Bán nồi bán trách là chợ Tri Tôn14, 
Học khéo học khôn là chợ Trường Bình15, 
Trống mõ thình lình là chợ Châu Đốc16. 
Tánh hay nói dóc là chợ Tầm Vu17, 
Súng nổ liên tu là chợ Hộ Phòng18. 
Hay nói lòng vòng đó là vè chợ.” 
 (Vè Chợ Lục tỉnh) 
12
 Chợ Cà Mau ở xã Chợ Mới, tỉnh An Giang. 
13
 Chợ Lách có nguồn gốc từ tên một cái chợ hình thành ở vùng có nhiều cây lau lách mọc, trở thành 
địa danh của một đơn vị hành chính cấp huyện, rồi tên của một thị trấn. Huyện nằm phía trên cùng của 
cù Lao Minh, bằng nửa diện tích huyện Mỏ Cày (18.897 ha), thuộc hàng nhỏ nhất trong 7 huyện của 
tỉnh Bến Tre, chiều dài 22,5 km, chiều ngang giới hạn bởi hai bờ sông Cổ Chiên và Hàm Luông, nơi 
hẹp nhất chỉ có 2km. Trước tháng 8-1945, Chợ Lách là một huyện thuộc tỉnh Vĩnh Long. Trong kháng 
chiến chống Pháp, theo quyết định của UBKCHC Nam Bộ (1948), huyện Chợ Lách tách khỏi tỉnh 
Vĩnh Long nhập về tỉnh Bến Tre. Sau ngày 30-4-1975, theo chủ trương điều chỉnh lại địa giới các 
huyện, thị, Chợ Lách gồm 10 xã và 1 thị trấn. 
14
 Tri Tôn gốc Khmer. Có 2 cách lý giải: 
1. Nguyên dạng Sva Téanh hay Sva Tong, nghĩa là “khỉ níu kéo” vì ngày xưa đây là vùng hoang dã, 
khỉ thường quấy rối khách qua đường. 
2. Nguyên dạng Svay Tôn, nghĩa là “xoài dây”, vì tại đây có một cây xoài ra trái rất nhiều, được coi là 
xoài thiêng nên người Khmer xây chùa ở chỗ có cây xoài và đặt tên chùa nơi ấy. Từ tên chùa trở thành 
tên vùng. Sở dĩ Xà Tón bị nói chệch thành Tri Tôn vì trong tiếng Việt đã có sẵn từ tổ Tri Tôn giống 
như các địa danh Kế Sách, Phó Bảng, Rù Rì. 
Tri Tôn (Hán Việt) là “biết tôn trọng”. 
15
 Chợ Trường Bình xưa thuộc huyện Phước Lộc, tỉnh Gia Định; nay là chợ Cần Giuộc ở thị trấn Cần 
Giuộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Địa danh được biết đến qua bài Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc 
của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. 
16
 Châu Đốc là thị xã của tỉnh An Giang, diện tích 100,6 km2, dân số 112.155 người (2007), gồm 4 
phường: Châu Phú A, Châu Phú B, Núi Sam, Vĩnh Mỹ và 3 xã: Vĩnh Châu, Vĩnh Ngươn, Vĩnh Tế. Từ 
ngày 23-8-1979, sáp nhập xã Vĩnh Tế của huyện Vĩnh Tế vào Châu Đốc. 
Châu Đốc có 3 giả thuyết: 
1. Gốc Khmer Moot Chrut, nghĩa là “mõm heo”. 
2. Châu (Thị Tế, vợ Nguyễn Văn Thoại) + Đốc là chức vụ của vua ban để cai quản đất này. 
3. Châu: vùng đất, tỉnh; Đốc: nơi thiêng liêng, quan trọng. 
17
 Chợ Tầm Vu ở phường Hưng Lợi, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. 
Có hai cách giải thích: 
1. Tầm Vu gốc Khmer Lam Pu, là “cây bần” . 
2. Tầm Vu gốc Khmer Sampu, là “chiếc thuyền”. Về ngữ âm, thuyết sau có lý hơn. 
18
 Hộ Phòng thuộc huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Hộ Phòng (Hán Việt) là “canh phòng để bảo vệ”. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
94 
Thông qua ca dao, dân ca, vè... liên 
quan đến địa danh, chúng ta sẽ nhận 
diện được những đặc trưng vùng đất 
trên cả khía cạnh vật chất lẫn tinh thần, 
giúp định hình vùng miền bằng tên gọi. 
Xét ở khía cạnh khác, những địa danh 
này lại là căn cứ hữu ích giúp các lĩnh 
vực như du lịch, lịch sử,... có thêm một 
cứ liệu để tham khảo. 
3. Kết luận 
Mỗi địa danh được phản ánh còn ẩn 
chứa niềm tự hào của cư dân trên vùng 
đất đối với những thứ gắn liền với quê 
hương mình. Những vẻ đẹp rất đặc 
trưng ấy xét trong tổng thể văn hóa Việt 
cũng chính là những chỉ báo cho đặc 
trưng con người Việt Nam. Có thể kết 
luận, địa danh vừa là kho tàng “nguyên 
liệu” để sáng tác, chuyển tải tâm tư tình 
cảm của người dân Tây Nam Bộ vừa là 
một đặc trưng giúp nhận diện văn hóa 
của con người Tây Nam Bộ nói riêng và 
Nam Bộ nói chung. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trần Văn Nam (2009), “Ca dao Nam Bộ - Ca dao của vùng đất mới”, 
ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=287:ca-
dao-nam-b-ca-dao-ca-vung-t-mi&catid=97:vn-hoa-dan-gian&Itemid=155, (truy cập 
ngày 13/03/2019) 
2. https://cadao.me/dong-thap-muoi-co-bay-thang-canh/, (truy cập ngày 
13/03/2019) 
3. Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị (1984), Ca 
dao dân ca Nam Bộ, Nxb TP. Hồ Chí Minh 
4. Trí Viễn Lê (1986), Thơ văn Đồng Tháp, Nxb Tổng hợp Đồng Tháp 
5. Huỳnh Ngọc Trảng (1998), Vè Nam Bộ, Nxb Đồng Nai 
STUDYING SOME PLACES IN THE WESTERN PART OF 
SOUTH VIETNAM THROUGH TYPES OF POETIC FOLK TEXT 
ABSTRACT 
Studying the place mark reflected in the poetic folk text will help better 
understand the human life and the worldview of Southwestern inhabitants. Thereby, 
we better understand the thoughts, feelings, dreams, aspirations etc. of the people in 
the South West of Vietnam during the history of national construction and creation. 
As a special source of evidence, the place naturally entered this literary section but 
contained many unique values as a way of preserving culture. 
Keywords: The Western part of South Vietnam, Cao Lanh, Dong Thap, folk 
culture, folk literature 
(Received: 17/2/2020, Revised: 26/2/2020, Accepted for publication: 12/5/2020) 

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_dia_danh_tay_nam_bo_qua_the_loai_van_van_dan_gian.pdf