Tiếp biến nghệ thuật trang trí trên kiến trúc phong cách Đông Dương tại Hà Nội (1884-1945)
Tóm tắt: Nước Pháp là một trong những trung tâm nghệ thuật lớn của trong thời kỳ Phục
Hưng và cho tới tận ngày nay của Châu Âu. Sẽ chẳng có gì liên quan tới quốc gia Đại Nam xưa
kia nếu như không có sự xâm lược của họ vào mảnh đất hình chữ S năm 1858, mà ý nghĩa sâu xa
được bắt đầu từ hiệp ước Versailles, ký kết năm 1787 bởi Nguyễn Ánh với người Pháp. Sở dĩ nhắc
tới mối liên hệ này để thấy rằng sự hiện diện của người Pháp tại Việt Nam đã có hơn 70 năm trước
khi họ chính thức xâm lược nước ta. Quãng thời gian đủ dài để người Pháp có những toan toan
tính dài hơi cho sự cai trị của mình, cái mà họ gọi là “khai phá văn minh” cho xứ An Nam. Hiển
nhiên, những người Pháp muốn sống một cuộc sống thật thoải mái như ở nhà, trên mảnh đất mà
họ dự tính cai trị lâu dài, điều này dẫn tới việc các công trình mang phong cách kiến trúc Pháp
đầu tiên được xây dựng. Tại Hà Nội, các công trình kiến trúc mang hơi thở, phong cách Pháp xuất
hiện muộn hơn (1875), tiêu biểu là sự xuất hiện của phong cách Kiến trúc Đông Dương, là sản
phẩm đặc sắc của sự kết hợp tài tình giữa kiến trúc phương Tây và văn hóa bản địa. Bài viết nhằm
chỉ ra những đặc điểm trang trí trên các công trình kiến trúc thời Pháp thuộc từ đó cho thấy được
sự tiếp biến về văn hóa - mỹ thuật - kỹ thuật đối với các công trình kiến trúc thời kỳ Pháp thuộc.
trên có độ dốc lớn và được ngăn cách với các mái dưới bởi hệ thống cửa lấy sáng và một hệ console liên tục, phía dưới là hai lớp mái có độ dốc nhỏ hơn. Mặc dù hình khối theo kiểu bát giác mang nhiều nét của kiến trúc Trung Hoa cổ, nhưng nhìn toàn bộ khối mái này lại gợi cho chúng ta hình ảnh cúa tháp chuông chùa Keo ở Thái Bình, cách xử lý khéo léo của các kiến trúc sư ở hệ mái ba lớp với các console liên tục chồng lên nhau. Toàn bộ hệ mái cho các khu trưng bày được cấu tạo theo kiểu mái chồng diêm hai lớp thường thấy ở đình làng và các ngôi chùa Việt Nam truyền thống. Khe hở giữa hai lớp mái đóng vai trò thoát gió trong hệ thống thông gió tự nhiên của công trình. Lớp mái phía dưới đua rộng ra khỏi hệ thống tường ngoài, có tác dụng che nắng và chống mưa hắt cho hệ thống cửa mờ rộng phía dưới, đồng thời tạo bóng đổ trên mặt đứng làm tăng vẻ duyên dáng cho toà nhà. Phần mái đua được đỡ bởi hàng cột kép kết hợp với hệ console cách điệu cùng các họa tiết trên lan can tạo ra một dáng vẻ Á Đông rõ rệt. Các giải pháp thông gió tự nhiên được các tác giả lưu ý đặc biệt bằng cách tổ chức một hệ thống cửa sổ mở rộng trên các tầng nhà, kết hợp với các cửa thoát gió trên mái khiến cho khối không khí trong nhà luôn được lưu thông theo cả phương ngang lẫn phương đứng. - Thiết kế phần cửa: Trong kiến trúc Đông Dương được bố trí nhiều cửa trên tường. Những cửa sổ được thiết kế cao và rộng để tăng thêm sự thông thoáng và chiếu sáng tự nhiên. Các công trình sử dụng phổ biến kiểu cửa lá sách đảm bảo cho gió tự nhiên vào trong không gian, giúp không gian thoáng hơn. Cửa sổ không chỉ được bố trí bên trên công trình mà còn được bố trí ở hành lang đặc biệt là hành lang ở phái chịu nhiều ánh sáng trực tiếp của mặt trời. Công trình Sở Tài chính (nay là trụ sở Bộ Ngoại giao) với thiết kế hệ mái của công trình không chỉ mang tính trang trí mà có ý nghĩa thực sự về khả năng che nắng, cách nhiệt, chống chói và chống mưa hắt. Nếu quan sát kỹ sẽ thấy phía Đông và Tây của toà nhà đều có các hàng hiên nhỏ có mái che chống bức xạ mặt trời gay gắt vào buổi sáng và buổi chiều. Khả năng thông gió và lấy sáng tự nhiên của công trình rất tốt nhờ lượng mở cứa lớn trên các mặt đứng. Các lỗ thoáng được đặt phía trên sàn và sát trần nhà đảm bảo khả năng thoát nhiệt. Toàn bộ cửa sổ đều được bố trí giữa hai lớp cửa kính trong chóp ngoài đảm bảo thông gió, lấy sáng tốt mà vẫn chống được ánh nắng chói chang về mùa hè và cái lạnh buốt giá về mùa đông ở Hà Nội. - Về phần trang trí: kiến trúc Đông Dương thường sử dụng các hình thức và motip trang trí mỹ thuật truyền thống Việt Nam do các kiến trúc sư thời đó chủ yếu tận Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 63 dụng những người thợ thủ công ở địa phương. Điều này cho thấy kiến trúc Đông Dương là một kiến trúc kết hợp của vẻ đẹp Á Đông với vẻ đẹp của Châu Âu. Các motip trang trí mỹ thuật truyền thống Việt Nam thường có 3 loại họa tiết trang trí chính : + Motip trang trí con chữ: chữ Hán, Chữ Vạn... + Motip trang trí là các biểu tượng của tôn giáo như: Bát bửu, tứ linh, Bát quái, Lưỡng nghi... + Motip trang trí hoa lá: Hoa chanh, dây leo, lá cúc... Hầu hết những chi tiết của motip trang trí ở Hà Nội là sự đề cập trực tiếp đến những hình tượng có tính chất khái quát mang tính triết lý phương Đông, các motip này được trình bày khá đơn giản, gọn gàng, mang tính cách điệu cao. Motip hồi văn chữ Vạn được sử dụng đến mức dày đặc trên tường Trụ sở Bộ Ngoại Giao và Đại học Tổng hợp Hà Nội. Trên tường sát mái của Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia hoặc ngay trên cửa chính Đại học Tổng hợp Hà Nội có thể hiện hình tượng Bát quái. Khác với họa tiết trang trí trên các công trình kiến trúc phong cách Đông Dương phía Nam giàu chất dân gian, các họa tiết trang trí trên các công trình kiến trúc phong cách Đông Dương ở Hà Nội chủ yếu sử dụng các đồ hình trang trí, các biểu tượng được kết tinh từ triết lý của các tôn giáo lớn như: Phật giáo, Đạo giáo, Khổng giáo chính vì vậy mà tính chất hàn lâm và thấm đẫm văn hóa Á đông là những nét rất nổi bật trong đặc trưng kiến trúc phong cách Đông Dương tại Hà Nội. 4. Giá trị tiếp biến trên nghệ thuật trang trí trên các công trình kiến trúc phong cách Đông Dương tại Hà Nội Khi các kiến trúc kiểu phương Tây bộc lộ nhiều bất cập trong điều kiện khí hậu và văn hóa Việt Nam thì việc sử dụng nghệ thuật kiến trúc, trang trí truyền thống Việt Nam với các ý nghĩa triết lý văn hóa sâu sa mới là sự lựa chọn phù hợp. Qua đó cũng thể hiện tinh thần độc lập sáng tạo của các nhà kiến trúc sư người nước ngoài trong việc sử dụng thợ trang trí người Việt Nam là giải pháp tối ưu cho việc thích ứng với môi trường tự nhiên và khí hậu nơi bản xứ. Những ý tưởng kiến trúc tuy do người nước ngoài khởi xướng nhưng đã được các nghệ nhân Việt Nam thực hiện với tinh thần dân tộc với lối thể hiện không chỉ đúng về hình thức mà còn cả về nội dụng của nghệ thuật truyền thống đã chuyền tải. Đó chính là sự tiếp biến giữa các dòng văn hóa: Âu - Á (Pháp - Việt), sự cộng sinh của nghệ thuật trang trí phương Tây và phương Đông đầu thế kỷ XX, được biểu hiện bởi những tính chất sau : - Giá trị lịch sử: thể hiện bởi sự đánh dấu một phong cách mới phù hợp với văn hóa truyền thống Việt Nam với các phong cách kiến trúc phương Tây đương thời được du nhập. Những hình thức kiến trúc, motip trang trí truyền thống thường xuất hiện trên các kiến trúc đình, chùa, cung điện, lăng tẩm... dưới bàn tay của những người thợ thủ công Việt Nam lại xuất hiện mềm mại, uyển chuyển, ăn hợp trên các công trình kiến trúc mang phong cách phương Tây. Điều đó chứng minh nghệ thuật trang trí dân tộc có thể phù hợp trong nhiều trường hợp với mục đích công năng sử dụng của các công trình kiến trúc tại Hà Nội thời kỳ đó. Không chỉ vậy, qua các hình thức truyền thống thể hiện trên kiến trúc phương Tây cho thấy bản sắc dân tộc được bảo toàn. Đó chính là đóng góp quan trọng và còn nguyên giá trị đến ngày nay của nghệ thuật Kiến trúc Đông Dương cho những giá trị lịch sử mỹ thuật Việt Nam. Sự hiện diện của các hình thức kiến trúc, các motip trang trí dân gian trên các công trình kiến trúc ở Hà Nội đã chứng minh 64 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Kiến trúc phong cách Đông Dương là một phong cách nghệ thuật thuộc về bản sắc dân tộc Việt Nam - một nền nghệ thuật mang đậm tính dân gian. Phong cách kiến trúc này cũng có sự đóng góp lớn lao và là dấu ấn đặc sắc trong quá trình nghệ thuật tạo hình ở Việt Nam. - Tính độc đáo: kiến trúc phong cách Đông Dương ở Hà Nội đã tạo ra sự khác biệt và tính chất riêng so với các kiến trúc cùng phong cách ở các địa phương khác... Với những nét gần gũi, thân thiện của nghệ thuật phương Đông đã nằm trong tiềm thức người địa phương phong cách Kiến trúc Đông Dương ở Hà Nội với những hình thức, ý nghĩa hoàn toàn hợp lý, hài hòa và phù hợp với kiến trúc mà nó cộng sinh gắn kết. Những yếu tố đặc trưng của nghệ thuật trang trí kiến trúc truyền thống hòa quyện vào kiến trúc Pháp đã đem lại cho kiến trúc phong cách Đông Dương ở Hà Nội những điểm nhấn đặc biệt, là dấu ấn đặc sắc của phong cách này không thể nhầm lẫn với các phong cách kiến trúc khác. Điều đáng chú ý là, những công trình kiến trúc Đông Dương tại Hà Nội lại được thực hiện với những chất liệu mới (sắt, thép, vữa, xi măng, kính...) đã biểu hiện một tư duy sáng tạo mới để chứng minh phong cách nghệ thuật này có thể thích ứng để tồn tại và phát triển, cụ thể là thể hiện trên lĩnh vực trang trí kiến trúc. 5. Kết luận Kiến trúc phong cách Đông Dương nói riêng và kiến trúc Pháp thuộc nói chung, được nảy sinh và phát triển trong bối cảnh người Pháp mở rộng các vùng thuộc địa tại bán đảo Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia) trong đó các công trình thời Pháp thuộc để lại nhiều dấu ấn nhất là tại Việt Nam. Kiến trúc phong cách Đông Dương là một sự nhìn nhận lại về cách tiếp cận nghệ thuật kiến trúc của người Pháp đối với một dân tộc nền tảng văn hóa nghệ thuật truyền thống lâu đời. Đồng thời phong cách kiến trúc này ra đời cũng cho thấy sự áp đặt và tính phi truyền thống trong các phong cách kiến trúc trước đó của người Pháp đã không được người bản địa chấp nhận. Kiến trúc phong cách Đông Dương là sản phẩm của sự xuống thang và chấp nhận thỏa hiệp của kiến trúc Pháp với nghệ thuật kiến truyền thống Việt Nam. Ở một mặt khác đây là sự tiếp biến đầy sáng tạo của hai công trình sư “Pháp -Việt”. Các công trình kiến trúc phong cách Đông Dương nêu ở các phần trên là minh chứng thuyết phục nhất của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Pháp: đồ sộ, tráng lệ, vững chãi với sự tinh tế, mềm mại, sâu sắc của tinh hoa kiến trúc Việt Nam. Ngoài những ý nghĩa nêu trên, kiến trúc phong cách Đông Dương còn là sự kết hợp, lai tạo hết sức độc đáo và kỳ lạ: giữa một bên là khoa học và chính xác trong toán học và vật lý trong thiết kế kiến trúc và một bên là những biểu tượng của triết học trong tôn giáo và văn hóa vừa sâu sắc vừa ẩn dụ cả sức mạnh tâm linh. Tài liệu tham khảo: 1. Đặng Thái Hoàng, Kiến trúc Hà Nội thế kỷ XIX – XX, NXB Hà Nội, 1995. 2. Hữu Ngọc, L. Borton, Kiến trúc Pháp ở Hà Nội, NXB Thế giới. 3. Nguyễn Đình Toàn, Những nhân tố tự nhiên và truyền thống văn hoá bản địa trong kiến trúc thời kỳ Pháp thuộc ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, 1997. 4. Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội (1875 - 1945), NXB Thế giới, 2009. 5. V. Malherbe và cộng sự, Hà Nội - giấc mơ Tây phương ở Viễn đông, Hà Nội, 2010. 6. Trần Quốc Bảo: Kiến trúc Pháp ở Hà Nội và tầm ảnh hưởng của nó, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Trường đại học Xây dựng. Địa chỉ tác giả: Trường Đại học Mở Hà Nội Email: buithanhhoa.designer@gmail.com
File đính kèm:
- tiep_bien_nghe_thuat_trang_tri_tren_kien_truc_phong_cach_don.pdf