Suy nghĩ về tư duy (Phần 1)
MỤC LỤC
1. Mở đầu . 5
2. Tư duy là gì? . 7
3. Các nghiên cứu về tư duy . 16
4. Tư duy và hành động . 24
4.1. Hành động cá nhân . 24
4.2. Mối quan hệ giữa tư duy và hành động . 27
5. Chuỗi từ nhu cầu đến hành động và ngược lại (chuỗi nhu cầu–hành
động) khi chưa có tư duy . 32
5.1. Nhu cầu cá nhân và hành động cá nhân . 32
5.1.1. Nhu cầu cá nhân . 32
5.1.2. Mối liên hệ giữa nhu cầu cá nhân và hành động cá nhân . 37
5.2. Xúc cảm cá nhân trong chuỗi nhu cầu–hành động . 41
5.3. Thói quen tự nguyện trong chuỗi nhu cầu–hành động . 51
6. Tư duy trong chuỗi nhu cầu–hành động: tư duy sáng tạo hiện có . 56
6.1. Những nhận xét chung về tư duy hiện có . 57
6.2. Tư duy rất chủ quan . 63
6.3. Phương pháp (tự nhiên) thử và sai: công cụ tư duy thô sơ, năng
suất, hiệu quả thấp, điều khiển kém . 64
6.4. Tư duy chưa được chú ý xứng đáng . 76
7. Tư duy sáng tạo cần có: một số nét phác thảo . 83
8. Đã xuất hiện nhu cầu xã hội đòi hỏi phát triển sáng tạo học và
phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM) . 90
8.1. Sáng tạo – nguyên nhân thành công chính nếu không nói là duy nhất
ở thế kỷ 21 . 92
8.2. Phương pháp thử và sai đã tiến đến những giới hạn . 99
8.3. Nhu cầu học PPLSTVĐM tăng . 105
9. Tổng quan các kết quả đạt được trong lĩnh vực phương pháp luận
sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM) . 107
10. TRIZ – ứng viên tiềm năng để trở thành tư duy cần có . 113MỤC LỤC
4
10.1. Các quy luật sáng tạo phải tìm chính là các quy luật phát triển. 113
10.2. Sáng tạo của con người: khía cạnh chủ quan và khía cạnh khách
quan . 114
10.3. Cơ chế định hướng và tư duy định hướng . 118
10.4. Phát triển của con người: năng lực cơ thể hay/và công cụ . 120
10.5. Quan hệ giữa tài năng và công cụ . 121
10.6. TRIZ: các yêu cầu đối với PPLSTVĐM . 123
10.7. Các nguồn thông tin và tri thức của TRIZ . 125
10.8. Sơ đồ khối TRIZ . 127
11. Du nhập, phổ biến và phát triển phương pháp luận sáng tạo và đổi
mới (PPLSTVĐM) ở Việt Nam . 132
11.1. Du nhập phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM) vào
Việt Nam . 132
11.2. Phổ biến và phát triển phương pháp luận sáng tạo và đổi mới
(PPLSTVĐM) ở Việt Nam: các kịch bản . 133
11.3. Phổ biến và phát triển PPLSTVĐM ở Việt Nam trước và từ khi thành
lập Trung tâm Sáng tạo Khoa học-kỹ thuật (TSK) . 136
11.4. Mở rộng TRIZ và dạy TRIZ mở rộng cho đông đảo mọi người . 182
11.5. Một số kết quả mở rộng TRIZ và dạy TRIZ mở rộng cho đông đảo
mọi người . 189
12. Thay cho kết luận . 218
Phụ lục 1: Genrikh Saulovich Altshuller – tiểu sử và sự nghiệp . 251
Phụ lục 2: Tôi được học thầy Genrikh Saulovich Altshuller . 255
Phụ lục 3: In memory of Genrikh Saulovich Altshuller . 271
Phụ lục 4: Một số thông tin về TRIZ, các hội nghị về TRIZ, các lớp dạy về
TRIZ trên thế giới . 275
Phụ lục 5: Về các biểu tượng và bài hát Sáng tạo ca . 289
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH VÀ NÊN TÌM ĐỌC THÊM, KỂ CẢ CÁC
CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ . 293
u khiển được vẫn được tiếp nhận một cách bình thường. Chúng ta sẽ tìm ra phương tiện điều khiển nó, chúng ta sẽ điều khiển nó. Nhưng ý tưởng về việc điều khiển quá trình sáng tạo, như là quy tắc, luôn gặp sự chống đối quyết liệt”. Nói cách khác, công cụ hiện nay dùng trong lĩnh vực tư duy sáng tạo còn rất thủ công mò mẫm, thô sơ theo kiểu thử và sai: cứ nghĩ đi, làm đi, thua keo này, bày keo khác cho đến bao giờ thành công thì thôi với năng suất, hiệu quả, độ tin cậy, tính Tư duy trong chuỗi nhu cầu–hành động: tư duy sáng tạo hiện có 79 điều khiển thấp và khó truyền đạt “bí quyết” của mình cho những người khác để họ có thể nghĩ theo cách đó cũng có những sáng tạo tốt. Nhưng cũng chính tư duy – công cụ không nhìn thấy và rất thô sơ ấy lại quyết định những cái nhìn thấy và cho ra đời những công cụ và thành tựu hiện đại nhất. Từ đây chúng ta có thể thấy xã hội loài người sẽ phát triển vượt bậc như thế nào nếu tư duy có được những công cụ hiện đại, năng suất, hiệu quả cao, điều khiển tốt như trong hai lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Cái đắt thì chú ý nhiều >< Cái rẻ chú ý ít Một loại máy tính hoạt động rất phí phạm vì chưa dùng hết khả năng của chúng, mặc dù có một loạt ưu điểm vượt trội so với máy tính hiện đại nhất hiện nay: o Không cần lập công ty thiết kế, chế tạo và sản xuất mà vẫn có máy tính để dùng. o Phổ biến đến mức, ai cũng có và có rất sớm ngay từ khi bắt đầu cuộc đời. o Rất nhẹ, khoảng hơn kilôgram và luôn luôn đi theo chủ thành ra không sợ để quên đâu đó. o Có khả năng tàng hình nên người chủ tha hồ sử dụng máy tính đó một cách thoải mái mà không ai biết, kể cả ở những nơi cấm sử dụng máy tính thông thường. o Luôn được giấu kín ở nơi mà không ai có thể đột nhập để lấy trộm được. o Phần cứng lý tưởng đến mức người chủ không phải bận tâm về việc “lên đời”. o Bảo mật cực tốt, các tin tặc chỉ có nước ngồi khóc. o Tự động nạp năng lượng làm việc, không phụ thuộc vào máy phát điện, điện lưới, pin, ắc-quy o Thời gian hoạt động trung bình 60 – 70 năm mà không phải bảo trì, sửa chữa, thay thế. o Sử dụng để giải quyết các loại vấn đề mọi nơi, mọi lúc, thường xuyên hơn bất kỳ loại máy tính nào khác. o Có khả năng phát các ý tưởng sáng tạo mà lĩnh vực trí tuệ nhân tạo không biết bao giờ mới có thể bén gót. o Chính nó giúp chế tạo ra các loại máy tính khác nói riêng và tất cả các công Tư duy trong chuỗi nhu cầu–hành động: tư duy sáng tạo hiện có 80 cụ lao động của con người nói chung. o Giá máy rẻ không ngờ vì ai cũng được cha, mẹ tặng, không mất tiền mua. Bạn đọc đã đoán ra “máy tính vượt trội” vừa nói chính là bộ óc của mỗi người bình thường. Thật là lạ khi thấy người ta theo đuổi những máy tính điện tử cùng các phần mềm đắt tiền mà chưa chú ý khai thác các ưu việt của loại máy tính cực rẻ (bộ óc) này bằng cách viết các “phần mềm” thích hợp cho nó. Học tư duy ít, dùng nhiều >< Học tự nhiên, xã hội nhiều, dùng ít Suốt cuộc đời, mỗi người chúng ta dùng suy nghĩ rất nhiều, nếu như không nói là hàng ngày. Từ việc trả lời những câu hỏi bình thường như “Hôm nay ăn gì? Mặc gì? Làm gì? Mua gì? Xem gì? Đi đâu?” đến làm các bài tập thầy, cô cho khi đi học; chọn ngành nghề đào tạo; lo công ăn, việc làm, sức khỏe, thu nhập, hôn nhân, nhà ở; giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc, trong quan hệ xã hội, gia đình, nuôi dạy con cái, tất tần tật đều đòi hỏi phải suy nghĩ và chắc rằng ai cũng muốn làm sao mình suy nghĩ tốt để ra những quyết định đúng. Mặc dù đâu đó chúng ta nghe thấy những lời mang tính khẳng định kiểu, học toán học là học suy nghĩ lôgích, chính xác; các môn triết học, khoa học tự nhiên và xã hội giúp hình thành thế giới quan, nhân sinh quan là điều rất cần thiết để có tư duy đúng; chơi cờ là hình thức rất tốt để luyện tập suy nghĩ; văn học, nghệ thuật và giáo dục thẩm mỹ đem lại nhiều tình cảm đẹp, tạo cảm hứng tốt cho các hoạt động trí óc Nhưng rõ ràng, chúng ta không được học môn trực tiếp về tư duy để sáng tạo, để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Ngay cả khoa học có phần chuyên ngành nghiên cứu tư duy là tâm lý học cũng rất ít người được học. Trong khi đó, suốt cuộc đời, chúng ta phải học rất nhiều môn trong nhà trường, nhiều điều ngoài nhà trường, chủ yếu về hai lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Nhưng xem ra những gì chúng ta được học nhiều lại dùng rất ít trong cuộc sống và công việc. Nếu bạn đọc hiện nay đang đi làm, bạn càng có điều kiện để chiêm nghiệm điều đó. Chẳng hạn, từ khi bạn đi làm đến nay, ngoài một số kiến thức nghiệp vụ thuộc nghề của bạn, bạn đã bao nhiêu lần dùng những kiến thức khi học trong trường phổ thông thôi (chưa nói những kiến thức khác sâu hơn) như hằng đẳng thức đáng nhớ, giải phương trình bậc nhất, bậc hai, lấy đạo hàm, ba định luật của Newton, cân bằng phương trình của các phản ứng hóa học Nghịch lý học ít, dùng nhiều và ngược lại học nhiều, dùng ít, đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin, tri thức, đang là vấn đề được nhiều nhà giáo dục trên thế giới báo động và dành nhiều nỗ lực để giải quyết. Tư duy trong chuỗi nhu cầu–hành động: tư duy sáng tạo hiện có 81 Thông minh >< Ít có kết quả sáng tạo Có giai thoại sau liên quan đến tư duy sáng tạo. Montaigne, nhà triết học Pháp nói với những người xung quanh: “Thượng đế ban phát cho loài người rất nhiều thứ không công bằng. Riêng về trí thông minh thì ai cũng như ai”. Mọi người đề nghị ông giải thích. Ông trả lời: “Các bạn để ý mà xem, có người khỏe, có người yếu; có người mập, có người gầy; có người cao, có người thấp; có người đẹp, có người không đẹp; Nhưng có ai tự nhận mình là ngu đâu và nếu như ai bị người khác mắng là ngu, người đó sẽ tức điên lên ấy chứ. Điều này chứng tỏ ai cũng thông minh như ai”. Câu nói tưởng là đùa của Montaigne phản ánh một sự thật được hầu hết các nhà nghiên cứu công nhận. Đó là, tiềm năng sáng tạo của bộ óc mỗi người bình thường (không bị các khuyết tật về não) cực kỳ lớn, đến nỗi, có nhà khoa học nói: “Trong mỗi người có một thiên tài ngủ quên”. Có cách nào đánh thức thiên tài trong mỗi người tỉnh dậy và hoạt động để kết quả sáng tạo của mỗi người tương xứng với tiềm năng thông minh vốn có? Làm sao biến tiềm năng thành hiện thực? Nhiều vấn đề >< Ít suy nghĩ Mục 2. Tư duy là gì? cho chúng ta biết, cuộc đời của mỗi người là chuỗi các vấn đề cần giải quyết, chuỗi các quyết định cần phải ra. Mỗi người cần suy nghĩ để giải quyết vấn đề, để ra quyết định. Cuộc đời của mỗi người đều có nhiều vấn đề, nhiều lần phải ra quyết định, do vậy cần phải suy nghĩ nhiều. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, số lượng người có suy nghĩ khi gặp vấn đề hoặc khi cần ra quyết định không nhiều, số lượng người thực sự suy nghĩ đến nơi đến chốn còn ít hơn và số lượng người suy nghĩ một cách có hiệu quả lại còn ít hơn nữa. Về điều này, A. Einstein nhận xét: “Suy nghĩ là một việc khó, nên rất ít người chịu khó suy nghĩ”. Còn người nhận giải Nobel văn học Bernard Shaw nói về suy nghĩ như sau: “Ít người suy nghĩ hơn hai hoặc ba lần trong một năm. Tôi tạo được sự nổi tiếng quốc tế là do tôi luôn suy nghĩ một hoặc hai lần trong một tuần”. Đi vào cụ thể, ngay cả trường hợp có dùng tư duy, trong ba loại tư duy (xem mục 3. Các nghiên cứu về tư duy thì có lẽ tư duy trực quan–hành động được dùng nhiều nhất, rồi đến tư duy trực quan–hình ảnh và sau cùng là tư duy từ ngữ–lôgích. Tư duy từ ngữ– lôgích, nếu dùng thì chủ yếu là ngôn ngữ tự nhiên và lôgích tự nhiên. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc người ta ít suy nghĩ: 1) Suy nghĩ, mà thực tế lại là suy nghĩ bằng phương pháp phổ biến thử và sai, tốn nhiều sức lực, trí lực, thời gian. Do vậy, nhiều người ngại, lười, trốn suy nghĩ, thậm chí, cam chịu, chấp nhận những hậu quả không mong muốn do vấn đề chưa Tư duy trong chuỗi nhu cầu–hành động: tư duy sáng tạo hiện có 82 được giải quyết mang lại. Nói cách khác, đành “sống” chung với vấn đề. Ví dụ, sống chung với ô nhiễm, kẹt xe. 2) Môi trường có những điều kiện giúp người có các vấn đề tránh suy nghĩ giải quyết chúng. Ví dụ, các vấn đề có thể báo cáo lên cấp trên. Cấp trên sẽ suy nghĩ, giải quyết, mình chỉ là thiên lôi chỉ đâu đánh đấy theo quyết định của cấp trên. Các vấn đề có thể giao cho cấp dưới suy nghĩ rồi họ kiến nghị các giải pháp, các dự thảo quyết định. Các vấn đề có thể chuyển giao cho những người khác giải quyết bằng cách mua, thuê các thành phẩm, dịch vụ có sẵn hoặc đặt hàng giải quyết theo các yêu cầu của chủ sở hữu vấn đề. Tất nhiên, chủ sở hữu vấn đề phải có đủ tiền để làm điều đó. Nhân đây, người viết dẫn ra câu nói cửa miệng của E.Rutherford (giải Nobel vật lý) nhắc nhở các đồng nghiệp và học trò mình: “Chúng ta không có tiền, chúng ta phải suy nghĩ” (We’ve got no money, so we have to think). 3) Người có vấn đề có thể chuyển sang các môi trường khác, ở đó không có vấn đề mình gặp. Ví dụ, chuyển công tác, chuyển nhà, chuyển nghề, li dị, cắt đứt các quan hệ xấu. 4) Người viết cho rằng nguyên nhân cơ bản nhất của việc ít hoặc không suy nghĩ là do giáo dục nói riêng, nhân loại nói chung không thực sự chú ý đến tư duy: cho đến hiện nay, trong các nhà trường trên khắp thế giới, hầu như không thấy dạy và học suy nghĩ như một môn riêng. Nhiều nơi khuyến khích học thuộc lòng không cần suy nghĩ. Có những nơi, giới lãnh đạo cần những người cuồng tín hoặc nô lệ, là những người có suy nghĩ mà không dùng. Để khắc phục các nghịch lý nói trên, những người có trách nhiệm đối với sự phát triển của nhân loại và cá nhân cần thực hiện những ý kiến của các nhà khoa học để thực sự chú ý đến tư duy. Ví dụ: Maxwell: “Đề tài nghiên cứu chân chính dành cho nhân loại chính là con người”. T. Edison: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của nền văn minh là dạy con người biết suy nghĩ”. M. Planck: “Chức năng của trường học không phải là cung cấp các kinh nghiệm chuyên môn mà là bồi dưỡng, luyện tập tư duy có phương pháp một cách
File đính kèm:
- suy_nghi_ve_tu_duy_phan_1.pdf