So sánh năng lực tiếng Việt của học sinh Khmer Lớp 3, 4 và 5 giữa Đông và Tây Nam Bộ
Học sinh Khmer bậc Tiểu học ở hai khu vực Bình Phước (Đông Nam Bộ) và Trà
Vinh, Sóc Trăng (Tây Nam Bộ) đều phải sử dụng tiếng Việt. Tuy nhiên, năng lực,
mức độ và phạm vi sử dụng ngôn ngữ quốc gia này của học sinh của hai khu
vực còn nhiều hạn chế. Vậy, nguyên nhân từ đâu? Bài viết sẽ một phần trả lời
cho câu hỏi trên nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách ngôn ngữ, chính
sách giáo dục và những người xây dựng chương trình sách giáo khoa có cái
nhìn đầy đủ, toàn diện hơn.
iệt 4, tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2017. Kết quả như sau (Bảng 6). Bảng 6. Kết quả khảo sát kỹ năng sáng tạo câu của học sinh lớp 4 Địa phương Bỏ đúng trạng ngữ Ghi chú Lộc Ninh 4 (/10HS) Chỉ tính những học sinh đúng từ 3 câu trở lên Trà Vinh 4 Sóc Trăng 2 Nguồn: Tác giả khảo sát và thống kê. Bước 2: Yêu cầu học sinh thay chủ ngữ, vị ngữ và trạng ngữ trong những câu trên bằng những chủ ngữ, vị ngữ và trạng ngữ tương ứng. Kết quả như sau (Bảng 7). Nhận xét: - Hầu hết học sinh không hiểu hoặc hiểu rất kém về câu. - Khả năng tái hiện câu của học sinh đều rất thấp. HỒ XUÂN MAI – SO SÁNH NĂNG LỰC TIẾNG VIỆT 46 Với học sinh lớp 5: Bước 1: Chọn 5 câu ghép trong sách giáo khoa và yêu cầu học sinh tách thành những câu độc lập. Học sinh thực hiện trong 10 phút: (1) “Dưới những nhát búa hăm hở của anh, con cá lửa ấy vùng vẫy, quằn quại, giãy lên đành đạch” (bài “Cách nối các vế câu ghép”); (2) “Vì con khỉ này rất tinh nghịch nên các anh thường phải cột dây” (bài “Nối các vế câu ghép bằng quan hệ từ”); (3) “Tuy bốn mùa là vậy nhưng mỗi mùa Hạ Long lại có những nét riêng biệt, hấp dẫn lòng người” (bài “Nối các vế câu ghép bằng quan hệ từ”); (4) “Ngày nay, trên đất nước ta, tuy công an làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự an ninh nhưng mỗi một người dân đều có trách nhiệm bảo vệ công cuộc xây dựng hòa bình” (bài “Nối các vế câu ghép bằng quan hệ từ”) và (5) “Theo báo cáo của Phòng Cảnh sát giao thông thành phố, trung bình mỗi đêm có 1 vụ tai nạn và 4 vụ va chạm giao thông” (bài “Mở rộng vốn từ: Trật tự - an ninh”). Tất cả những câu này đều được trích trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5, tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2011. Kết quả như sau (Bảng 8). Bảng 8. Kết quả khảo sát kỹ năng sáng tạo câu của học sinh lớp 5 Địa phương Đúng Ghi chú Lộc Ninh 2 (/10HS) Chỉ tính những học sinh đúng từ 2 câu trở lên Trà Vinh 4 Sóc Trăng 2 Nguồn: Tác giả khảo sát và thống kê. Bước 2: Cho 5 câu đơn ngoài sách giáo khoa, yêu cầu học sinh thêm quan hệ từ để tạo thành câu ghép: (1) Nó chẳng bao giờ siêng. Nó phải nhận kết quả đáng xấu hổ thôi; (2) Mưa như trút nước. Tuấn vẫn đi học rất đúng giờ; (3) Ông tôi thường xuyên luyện tập. Ông tôi tuy tuổi cao nhưng rất khỏe; (4) Đường xa lại khó đi. Chúng tôi vẫn tới đúng giờ nên được mọi người hoan nghênh; (5) Cả xóm đều nghèo. Bọn tôi vẫn không bỏ học cho nên tất cả thầy cô giáo đều thương còn bạn bè thì quý mến. Kết quả như sau (Bảng 9). Bảng 9. Kết quả khảo sát kỹ năng tạo câu ghép của học sinh lớp 5 Địa phương Đúng yêu cầu Ghi chú Lộc Ninh 4 (/10HS) Chỉ tính những học sinh đúng từ 2 câu trở lên Trà Vinh 4 Sóc Trăng 2 Nguồn: Tác giả khảo sát và thống kê. Bảng 7. Kết quả khảo sát kỹ năng sáng tạo câu của học sinh lớp 4 Địa phương Kết quả (/10 học sinh) Ghi chú Thay chủ ngữ đúng Thay vị ngữ đúng Thay trạng ngữ đúng Lộc Ninh 4 4 2 Chỉ tính những học sinh đúng từ 3 câu trở lên Trà Vinh 2 2 1 Sóc Trăng 4 6 2 Nguồn: Tác giả khảo sát và thống kê. . . TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (249) 2019 47 Nhận xét: - Tất cả đều đúng ở câu 1, 2 và sai ba câu còn lại. Sở dĩ như vậy là vì những câu này có quan hệ từ nên học sinh không xác định được. - Qua hai kết quả trên, chúng ta thấy đáng lo, bởi: . Những câu trong Bước 1 có trong sách giáo khoa, thuộc những tiết chính khóa, học sinh đã được học nhưng có 22/30 học sinh làm sai còn ở Bước 2 là 20/30 học sinh sai. Chỉ có một cách giải thích duy nhất là học sinh không hiểu (có thể vì chương trình khó so với trình độ; nhiều bài, môn học nên học sinh không đủ thời gian luyện tập...). . Hơn hai phần ba học sinh làm sai, cho dù đây là chương trình trọng tâm của học k 2. 3.3. Mấy ghi nhận và suy nghĩ về thực trạng tích lũy từ mới Kết quả khảo sát cho thấy số từ học sinh từ lớp 3 đến lớp 5 tích lũy được ở học k 2(2) như Bảng 10 (số trung bình đã được làm tròn). Nếu học k 1 cũng bấy nhiêu từ mới thì mỗi năm học sinh bậc học này sẽ tích lũy được bao nhiêu? Vì chương trình không bắt buộc học sinh phải nhớ tất cả, cho nên, thực tế, học sinh chỉ nhớ một số từ. Nếu so với Tân Hán ngữ giáo trình (Đại học Bắc Kinh, 2001), New Concept English (L.G. Alexander, 1994) hay một số giáo trình dạy ngoại ngữ khác, chúng ta thấy nguyên nhân vì sao hết bậc Tiểu học, học sinh chúng ta vẫn rất khó khăn trong diễn đạt. Đó là: Việc phân bố từ mới của sách giáo khoa chưa thật sự hợp lý, thiếu logic. Bởi lẽ, càng lên lớp trên thì số từ mới phải càng nhiều, đáp ứng nhu cầu giao tiếp và tâm lý - độ tuổi, nhưng như đã thấy, hai lớp cuối lại là những lớp có số từ mới ít nhất, đặc biệt là lớp 4. Một điểm rất đáng chú ý khác là trong tổng số 49 từ mới, không có từ nào từ thuộc lớp từ nông thôn - làng quê (0%); không có từ nào thuộc phương ngữ Nam Bộ (0%), 1 từ thuộc trung du - miền núi (2%, làm tròn), 8 từ thuộc ngôn ngữ vùng văn hóa Bắc Bộ (16,3%). Cấu trúc như vậy là chưa cân đối và sẽ dẫn tới tình trạng mai một đặc trưng tiếng nói vùng/miền (xem thêm Hồ Xuân Mai, 2015: 295- 302). Cơ cấu lớp từ mới cũng bất hợp lý, vì trong 49 từ chỉ có 1 từ chỉ gia đình Bảng 10. Kết quả khảo sát từ mới trong sách giáo khoa từ lớp 3 đến lớp 5 Lớp Tổng số từ tích lũy ở học k 2 Trung bình/tuần Loại từ Từ đơn tiết Từ đa tiết 3 29 1,8 từ/1tuần 2 24 4 8 0,5 từ/1 tuần 0 8 5 12 0,7 từ/1 tuần 3 9 Nguồn: Tác giả khảo sát và thống kê. . HỒ XUÂN MAI – SO SÁNH NĂNG LỰC TIẾNG VIỆT 48 (2%); 25 từ chỉ các vấn đề xã hội (51%) và 3 từ chỉ thiên nhiên (6,1%). Như vậy, từ chỉ nông thôn - làng quê, gia đình và thành phố rất ít. Về mục tiêu, cơ cấu và phân bố như trên là không phù hợp, bởi các Thông tư 30, 22 và mục tiêu của bậc học là xây dựng tình cảm, yêu thương gia đình, cha mẹ, ông bà. Về kiến thức, thực tế trên sẽ không đáp ứng được yêu cầu của bậc học và nhu cầu giao tiếp. Yêu cầu là khi học sinh học hết bậc học này phải sử dụng tiếng Việt tốt, có khả năng diễn đạt được ý nghĩ của mình hoặc/và sử dụng từ ngữ để diễn đạt nội dung nghe người khác nói. Còn về nhu cầu, chúng ta thấy với số lượng từ như vậy, chắc chắn học sinh sẽ gặp không ít khó khăn khi học lên những lớp cao hơn. 4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Tuy chưa đầy đủ, bao quát nhưng những kết quả trên cho thấy năng lực tiếng Việt của học sinh người Khmer ở bậc Tiểu học nói riêng, cụ thể là ở Lộc Ninh, Bình Phước (và cả ở Trà Vinh và Sóc Trăng) chưa đạt yêu cầu, mục tiêu đặt ra. Năng lực tiếng Việt của học sinh người Khmer ở hai khu vực còn hạn chế (từ lớp 3 đến lớp 5). Có nhiều nguyên nhân nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng nhất thuộc chương trình sách giáo khoa. Số lượng từ mới từ sách giáo khoa quá hạn chế đã phần nào khiến cho học sinh thiếu hẳn vốn từ vựng để diễn đạt. Nên tăng cường số lượng từ mới cho tất cả các khối; bố trí, cấu trúc cân đối và hợp lý hơn. Sau mỗi học k , thậm chí là sau mỗi bài học, cần có bảng từ mới như cách làm của Tân Hán ngữ giáo trình, New Concept English hay một số giáo trình ngoại ngữ khác và bắt buộc học sinh phải thuộc, nắm chắc trước khi chuyển sang bài mới. Nên có chế độ bắt buộc mỗi học sinh phải tích lũy số lượng từ cần thiết và có hiểu biết căn bản một số loại câu mới được xét lên lớp. Kèm theo đó là cần thay đổi phương pháp giảng dạy, giúp học sinh chủ động và linh hoạt hơn trong diễn đạt. Có như vậy mới tránh được cách diễn đạt đơn điệu bằng chủ yếu câu đơn một nòng cốt như đã nêu ở trên. Nhìn trên bình diện quốc gia, ngoài lớp từ toàn dân, cần phân bố số từ vựng sao cho thật hợp lý, đảm bảo từ của mỗi vùng/miền đều có trong chương trình theo một tỷ lệ như nhau, có chú giải, so sánh để học sinh (và có thể là giáo viên) hiểu và sử dụng. Theo chúng tôi, nên bỏ một số bài/nội dung chưa thật sự phù hợp với từng khối và tăng thời lượng cho phần luyện tập để học sinh nắm kỹ bài học, môn học. Chúng tôi cho rằng đây mới là giải pháp thiết thực để nâng cao năng lực tiếng Việt cho học sinh bậc học này. CHÚ THÍCH (1) Mục đích của bài viết là đề xuất giải pháp nâng cao năng lực tiếng Việt, cho nên, chúng tôi TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (249) 2019 49 chỉ trình bày kết quả khảo sát và nguyên nhân của thực trạng đó, mà không đề cập các chi tiết về khảo sát như câu hỏi, bảng hỏi (2) Học k 2 có 17 tuần, từ tuần 19 đến tuần 35. Riêng tuần 35 là để ôn thi học k nên thực tế học sinh chỉ học 16 tuần. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Alexander, L.G. 1994. New Concept English, Trần Văn Thành và Lê Thanh Yến dịch và chú giải. TPHCM: Nxb. TPHCM. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2007, 2016. bộ sách giáo khoa Tiếng Việt từ lớp 1 đến lớp 5, tập 1 và tập 2. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2014. Thông tư 01/2014/TT-BGDĐT về Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam. 4. Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2014. Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT, ngày 28/8/2014. 5. Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2016. Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT về Quy định đánh giá học sinh tiểu học. 6. Đại học Bắc Kinh. 2001. Tân Hán ngữ giáo trình (3 tập), Trương Văn Giới và Lê Khắc Kiều Lục biên dịch. TPHCM: Nxb. Đại học Quốc gia. 7. Hồ Xuân Mai. 2015. Tiếng Việt và sự phát triển văn hóa Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia-Sự thật. 8. Hội đồng Châu Âu (Council of Europe). Common European Framework of Reference (CEFR - Khung tham chiếu chung năng lực học ngoại ngữ Châu Âu) 9. Hội đồng Giáo dục Mỹ. 2014. The American Council on the Teaching of Foreign Languages (ACTFLE - Quy tắc giảng dạy ngoại ngữ Hoa K ). 10. Nguyễn Đức Dân. 1986. “Năng lực ngôn ngữ và sự thực hiện ngôn ngữ”, trong Ngôn ngữ học: Khuynh hướng - lĩnh vực - khái niệm. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 11. Nguyễn Như Ý (chủ biên). 2003. Từ điển tiếng Việt. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.
File đính kèm:
- so_sanh_nang_luc_tieng_viet_cua_hoc_sinh_khmer_lop_3_4_va_5.pdf