So sánh cách xưng hô trong nghi thức lời nói tiếng Nga với tiếng Việt

Tóm tắt: Từ xưng hô là thành tố quan trọng trong nghi thức lời nói tiếng Nga

và tiếng Việt. So sánh cách xưng hô trong nghi thức lời nói tiếng Nga với tiếng

Việt ở bình diện ngôn ngữ và văn hóa, góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy

nghi thức lời nói trong hai ngôn ngữ.

pdf8 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 573 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung So sánh cách xưng hô trong nghi thức lời nói tiếng Nga với tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
очка, сынок Ví dụ: Дочка, где здесь овощной магазин? 
(Con gái bé bỏng, cửa hàng rau ở đâu?); Сынок, который теперь час? (Con trai bé bỏng, 
bây giờ mấy giờ rồi?). Trong xưng hô với những người không quen biết lớn tuổi và cao 
tuổi người nói (khởi xướng đối thoại ) còn có thể sử dụng lối nói bình dân: Мать! 
Мамаша! Отец! Папаша! Cũng có thể nói như vậy về dạng thức xưng hô sử dụng các 
từ браток, сестричка.Ví dụ: Здорово, браток (Xin chào, người anh em). Cách xưng 
hô này cũng có trong tiếng Việt, chỉ khác nhau ở bình diện ngôn ngữ. 
2.2. So sánh cách xưng hô với người quen biết trong tiếng Nga và tiếng Việt 
2.2.1. Cách xưng hô sử dụng tên riêng và phụ danh trong giao tiếp tiếng Nga 
Trong giao tiếp tiếng Nga khi xưng hô với người quen biết tên riêng được sử dụng nhiều 
nhất. Đó là nét khác biệt lớn nhất của từ xưng hô tiếng Nga với các ngôn ngữ khác, trong 
đó có tiếng Việt. Xuất xứ tên riêng người Nga có nhiều nguồn gốc khác nhau: những tên 
mới xuất hiện như: Октябрина, Нинель...; những tên có từ lâu: Игорь, Олег, Ольга...; 
những tên có xuất xứ từ nước ngoài: Альберт, Виктор, Герман...; tên có nguồn gốc từ 
ngôn ngữ Xlavơ: Владислав, Олег...; tên được đặt theo mốt: Екатерина, Анастасия, 
Дарья... Người Nga thường dùng rộng rãi cách xưng hô theo lối rút gọn tên riêng như 
Елена -Лена, Татьяна-Tаня Ngoài hình thái rút gọn, cách xưng hô bằng tên riêng còn 
có thể được bổ sung các hậu tố nhằm biểu cảm như Татьяна-Танечка, Танюша... 
CÁCH XƯNG HÔ TRONG NGHI THỨC LỜI NÓI TIẾNG NGA 95 
Tùy từng gia đình mà người ta có thể dùng dạng giảm nhỏ này hay dạng giảm nhỏ khác 
của tên gọi. Một dạng tên riêng được dùng nhiều trong sinh hoạt gia đình với cộng đồng 
xã hội là dạng có thêm hậu tố -к(а) với sắc thái suồng sã hạ thấp về mặt tu từ như: 
Наташа-Наташка, Лена-Ленка... Do tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập (hình thái của từ 
không biến đổi khi biểu hiện những ý nghĩa ngữ pháp khác nhau) nên tên người Việt 
không được cấu tạo bằng phương thức hậu tố. Để biểu hiện sắc thái âu yếm, thân mật tên 
Việt cần kết hợp với định ngữ khác. Ví dụ: Nam bé bỏng, Đào đáng yêu, Ở bình diện 
văn hóa trong cách xưng hô người Việt ít sử dụng tên riêng (tên tục do cha mẹ đặt cho 
lúc con người mới sinh ra) đặc biệt với những người hơn tuổi. 
 Ngoài việc thường sử dụng tên riêng để xưng hô trong giao tiếp người Nga còn dùng tên 
và phụ danh để xưng hô. Ví dụ: Елена Андреевна, Николай Михайлович. Cách xưng 
hô tên kèm theo phụ danh có chức năng biểu thi sắc thái tôn trọng, lịch sự. Phụ danh tên 
người Nga được cấu tạo từ tên bố bằng các hậu tố: -ович (Петрович), -евич 
(Николаевич), -ич (Ильич) cho nam giới; và –овна (Петровна), -евна (Никалаевна), -
ична (Никитична) cho nữ giới. Phụ danh của mỗi người cũng có từ lúc mới sinh ra nhưng 
việc sử dụng trong xưng hô thì muộn hơn nhiều, sau khi người ấy đã trưởng thành có 
công việc độc lập trong xã hội. Ví dụ: Возьмите номерок, Иван Сергеевич. ( Ivan 
Xepgeievich, anh hãy nhận phòng đi). Trong trường phổ thông và trường đại học Nga tất 
cả các học sinh, sinh viên đều dùng cách xưng hô với các thầy giáo, cô giáo bằng tên và 
phụ danh. Trong tiếng Việt, học sinh, sinh viên thườngxưng hô với thầy cô giáo của mình 
bằng các từ xưng hô thầy, cô và để biểu hiện sự lễ phép, thái độ tôn trọng với thầy cô các 
em sử dụng các từ thưa, dạ. ạ. Ví dụ: Thưa cô, em viết xong rồi ạ. Do có sự giao thoa 
ngôn ngữ nên nhiều sinh viên Việt Nam khi xưng hô với thầy, cô giáo Nga vẫn thêm từ 
преподаватель + tên phụ danh. Cách xưng hô này sai với nghi thức lời nói Nga. 
Vì xưng hô được thực hiện chủ yếu dưới dạng khẩu ngữ cho nên chúng ta cần phải biết 
một số chuẩn mực phát âm tên riêng và phụ danh tiếng Nga. Trong chức năng xưng hô, 
khi nói chuyện tên người Nga và phụ danh được rút gọn (nghĩa là rút gọn nguyên âm cuối 
hoặc phần cuối của từ). Ví dụ: rút gọn tên riêng Петя – Петь! Наташа – 
Наташ!Tương tự, phụ danh cũng được phát âm rút gọn (rút bỏ nguyên âm hoặc vài ba 
âm ở giữa từ).Ví dụ: Анна Ивановна – Анн Ванн, Пётр Александрович – Пёт Саныч. 
2.2.2. So sánh cách xưng hô với người thân trong tiếng Nga và tiếng Việt 
Chúng ta đã phân tích đối chiếu cách xưng hô với người quen biết trong giao tiếp tiếng 
Nga và tiếng Việt bằng tên và phụ danh. Cách gọi tên những người thân thiết trong gia 
đình khi xưng hô cũng có những nét đặc biệt: trong tiếng Việt đó là dùng từ thân tộc như 
ba, tía; mẹ , má, bầm, u, tương tự trong tiếng Nga là các từ: мать, мама, мамочка 
(mẹ); отец, папа, папочка (bố). 
Trong giao tiếp sinh hoạt hằng ngày ở gia đình cách xưng hô мать, отец ít khi gặp đối với 
những người con đã lớn tuổi. Các từ xưng hô này chỉ được sử dụng khi câu chuyện sẽ nói 
có thể mang tính chất nghiêm trọng. Trái lại cách xưng hô мать, отец được trẻ nhỏ (đặc 
biệt là các bé gái) sử dụng thường xuyên. Tuy nhiên cách xưng hô мать, отец cũng còn 
96 VŨ YẾN SƠN 
tùy thuộc vào từng gia đình Nga. Có những gia đình cả những người con còn bé cũng như 
lớn tuổi sử dụng. Ở đây còn có cách xưng hô bằng мама, папа : cách này giống như trường 
hợp dùng tên riêng, khi giao tiếp cũng bị rút gọn: мама – мам, папа – пап. 
Khi xưng hô với bố, mẹ hình thức giao tiếp bằng “ты” (ngôi thứ hai số ít) thường được 
dùng để chỉ quan hệ thân mật gần gũi. Tuy nhiên, hiện nay ở một số vùng nông thôn Nga 
còn sử dụng cách xưng hô với bố mẹ bằng “вы” (ngôi thứ hai số nhiều) để nhấn mạnh 
thái độ đặc biệt tôn trọng với bố, mẹ. 
Các từ мама, папа trong giao tiếp cũng mang các hậu tố giảm nhẹ - âu yếm. Ví dụ: мама 
– мамочка – мамусенька – мамулечка, папа – папочка – папусенька – папулечкаю. 
Những từ дедушка (ông), бабушка (bà) cũng có chức năng xưng hô trong giao tiếp đối 
với người thân. Trong giao tiếp các từ này cũng mang hậu tố giảm nhẹ - âu yếm Бабушка 
– бабулечка – бабуленька , Дедушка – дедулечка – дедуленька. Những người cháu lớn 
có thể gọi ông mình bằng дед còn các cháu nhỏ gọi ông mình bằng деда. Khác với tiếng 
Việt cách xưng hô tiếng trong Nga không có kết hợp ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại. 
Khi có hai ông và hai bà (nội và ngoại) theo nghi thức lời nói Nga phân biệt bằng cách 
gọi tên riêng có kèm trước các từ деда và баба. Ví dụ: Баба Вера! (Bà Vera!), Деда 
Вася! (Ông Vaxia!) 
Cách xưng hô này được sử dụng với tất cả các thành viên khác trong gia đình như: сын – 
сынок (con trai), дочь – дочка (con gái), внук – внучка (cháu trai). 
Cách xưng hô trong tiếng Nga với các từ дядя (chú, bác), тётя (cô, dì) thường được 
dùng trong ba trường hợp: để gọi cô chú ruột – anh chị em ruột của bố hoặc mẹ. Trong 
đời sống hằng ngày của người Nga kiểu xưng hô này thường là kết hợp của các từ дядя, 
тётя với tên riêng. Ví dụ: Дядя Ваня! (Chú Vanhia!), Тётя Таня! (Cô Tanhia!) 
Ngoài ra, trẻ em mẫu giáo và học sinh lớn, nhỏ cũng dùng cách gọi này để xưng hô với 
người lớn tuổi không có quan hệ họ hàng. Cuối cùng cách xưng hô дядя, тётя được sử 
dụng gọi người lớn trong lĩnh vực dịch vụ có quen biết với gia đình: hộ lý trong bệnh 
viện, gác cổng, bảo vệ trường học, 
Tóm lại cách xưng hô với người quen biết trong giao tiếp Nga chủ yếu dùng tên riêng với 
các phương tiện ngôn ngữ mang hậu tố giảm nhẹ - âu yếm đó là điểm khác biệt lớn nhất 
với tiếng Việt chủ yếu dùng các dạng từ thân tộc xưng hô biểu hiện mối quan hệ gắn kết, 
nặng nghĩa tình trong cộng đồng xã hội. 
3. KẾT LUẬN 
Nghi thức lời nói là phạm trù quan trọng trong dạy thực hành tiếng cho tất cả các sinh 
viên học ngoại ngữ (trong đó có tiếng Nga và tiếng Việt), bởi trong mỗi nghi thức lời nói 
đều chứa đựng các đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của mỗi dân tộc. 
Từ xưng hô là thành tố quan trọng của lời nói. Việc sử dụng từ xưng hô có tính quyết 
định hiệu quả của một cuộc giao tiếp. 
CÁCH XƯNG HÔ TRONG NGHI THỨC LỜI NÓI TIẾNG NGA 97 
Nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn dạng thức giao tiếp của từ xưng hô trong tiếng Nga 
và tiếng Việt hoàn toàn không giống nhau: trong tiếng Nga quan hệ giữa vai trao và vai 
nhận bị chi phối bởi quan hệ xa và mối quan hệ gần; còn trong tiếng Việt mối quan hệ ấy 
bị chi phối bởi quan hệ tôn ty, huyết thống, hôn nhân. 
Trong tiếng Nga từ xưng hô chủ yếu được biểu đạt bằng danh từ tên riêng, còn trong tiếng 
Việt chủ yếu bằng danh từ xưng hô được chuyển hóa từ các danh từ thân tộc. 
Các dạng thức xưng hô trong tiếng Nga và tiếng Việt có những điểm giống nhau, nhưng 
khác nhau cơ bản về hình thái từ. Trong tiếng Nga số lượng từ hô gọi nhiều hơn tiếng 
Việt nhờ phương thức cấu tạo từ, còn trong tiếng Việt từ hô gọi chủ yếu nhờ phương tiện 
từ vựng là từ đồng nghĩa. Và chính điểm khác nhau cơ bản này đã làm cho sinh viên Việt 
Nam mới đầu học tiếng Nga và sinh viên Nga mới học tiếng Việt gặp nhiều khó khăn 
trong việc lựa chọn và sử dụng đúng các dạng thức hô từ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nguyễn Đức Dân (2001), Ngữ dụng học, TP. Hồ Chí Minh: NXB Giáo dục. 
[2] Trần Ngọc Thêm (2006), Văn hóa giao tiếp và nghệ thuật ngôn từ, NXB TP. Hồ Chí 
Minh 
[3] Акишина А.А., Формановская Н.И. (2006), Русский речевой этикет, М., изд. 
Русский язык. 
[4] Гольдин В.Е. (1987), Обрашение: Теоретические проблемы, изд. Сатаров. 
[5] Костоморов В.Г. (1996), Язык и культура, М. 
Title: COMPARING THE VOCATIVE WAYS OF SPEAKING RITUALS BETWEEN 
RUSSIAN AND VIETNAMESE 
Abstract: Vocative words are important elements in Russian and Vietnamese speech etiquette. 
Comparing the vocative way of ritual of speaking Russian with speaking Vietnamese at the 
linguistic and cultural level contributes to improving the effectiveness of teaching rituals in two 
languages. 
Key words: Vocative words, speech etiquette. 

File đính kèm:

  • pdfso_sanh_cach_xung_ho_trong_nghi_thuc_loi_noi_tieng_nga_voi_t.pdf