Quan niệm về tình yêu và hôn nhân trong văn xuôi cách mạng Việt Nam 1945-1975
Tóm tắt
Mỗi thời đại văn học có một quan niệm khác nhau về con người. Trong đó, quan niệm về tình yêu và
hôn nhân là nội dung không thể thiếu trong văn học hiện đại. Nó cũng được thể hiện khá rõ nét trong
văn xuôi cách mạng Việt Nam 1945 – 1975. Trong bài viết này, chúng tôi chú ý đến những nét đặc
trưng trong quan niệm tình yêu và hôn nhân của giai đoạn này so với các giai đoạn trước đó.
hành công thì hẵng nên nghĩ đến”. Họ ưu tiên việc nước trước, còn việc nhà tính sau. Trong Vùng trời (Hữu Mai), Hảo và Quỳnh yêu nhau trong thời gian khá lâu. Mỗi người một đơn vị, công tác xa nhưng vẫn hướng về nhau. Đoàn thể đã đề nghị tổ chức đám cưới cho hai người nhưng vì mải mê công tác, họ bỏ mất cơ hội đám cưới. Trong Ngày cưới (Ngô Quân Miện), có nhiều đám cưới được tổ chức tập thể tại công trường. Cô Sinh và anh Đắc cũng định tổ chức đám cưới theo lối đời sống mới. Nhưng Sinh nghĩ, cưới xong thì sinh con, bận bịu chuyện gia đình. Cô sẽ không có nhiều cơ hội để tham gia công việc xã hội. Bởi vậy Sinh đã đề nghị hoãn đám cưới. Như vậy, người phụ nữ có quyền quyết định chuyện hôn nhân. Nếu như thời phong kiến, cha mẹ có vai trò quan trọng trong hôn nhân của con cái thì nay, tập thể có vai trò quan trọng trong chuyện hôn nhân. Khi gặp những vấn đề khó khăn trong hôn nhân, các cặp trai gái thường nhờ chính quyền đoàn thể giúp đỡ. Và đoàn thể đã đứng ra tổ chức đám cưới cho họ theo lối đời sống mới như trường hợp của Vượng và Ái (Bão biển), Tuấn và Liên (Ánh sáng bên nhà hàng xóm) của Chu Văn. Quan niệm về hôn nhân trong thời hiện đại không còn chịu sự chi phối của quan niệm “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Người chồng chết, người vợ có quyền đi bước nữa. Chế độ mới đã tạo điều kiện cho chị Cả Phây (góa chồng) đến với anh Mọc (góa vợ) (Chị cả SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 34 Phây – Ngô Ngọc Bội). Những mối tình như vậy thường gặp nhiều cản trở do tập quán tư duy cũ vẫn còn. Chồng cô Hoan mất, mẹ chồng khuyên cô nên ở vậy nuôi con, thủ tiết thờ chồng giống như bà. Nhưng Hoan không thể cam chịu cuộc sống góa bụa dài dằng dặc. Cô đã yêu và có thai với Cần. Điều đó làm mâu thuẫn giữa cô với vợ chồng Binh Mâu thêm trầm trọng. Cô đã dám “đi bước nữa” và cả cái làng Đoài cũng sẽ “đi bước nữa” vào đời sống mới với những quan niệm mới về hôn nhân và gia đình (Đi bước nữa – Nguyễn Thế Phương). Trong Anh Keng (Nguyễn Kiên), việc anh Keng yêu chị Lạt đã gặp sự phản ứng dữ dội của cha anh. Nhưng anh Keng không quan tâm đến việc chị Lạt đã từng có chồng và lớn tuổi hơn mình. Bất chất dư luận, hai người vẫn lấy nhau và sống với nhau hạnh phúc. Hai người sinh một đứa con, chồng yêu thương tôn trọng vợ, vợ giúp chồng lo việc hợp tác xã. Hạnh phúc của hai vợ chồng anh khiến cho người cha độc đoán cũng hết giận, thừa nhận sự lựa chọn đúng đắn của con mình. Trước kia, người phụ nữ thường không có tự do, “gái có chồng như gông đeo cổ”. Phận gái mười hai bến nước, có hạnh phúc hay không còn tùy vào sự rủi may của số phận. Tuy nhiên, quan niệm về tình yêu và hôn nhân trong thời hiện đại có khác. Nếu không được chồng yêu thương, một số phụ nữ có thể bày tỏ tình yêu với người khác. Trong Vào đời (Hà Minh Tuân), vợ chồng của Sen – Hiếu có những rạn nứt trầm trọng do thói quen chơi bời hư hỏng của Hiếu. Sen yêu Lưu, bí thư chi đoàn nhà máy. Nhưng Lưu khuyên Sen hãy trở lại với Hiếu. Mặc dù vẫn chưa dứt khỏi Hiếu nhưng trái tim của Sen đã thuộc về Lưu rồi. Cũng như vậy, trong truyện Mở hầm (Nguyễn Dậu), cô công nhân Nghì không thể sống hạnh phúc với người chồng hư hỏng như Sự. Cô yêu Tuệ nhưng Tuệ khuyên cô hãy trở lại với Sự vì anh ta đang có chiều hướng tiến bộ. Còn Xiêm (Dấu chân người lính – Nguyễn Minh Châu) không chấp nhận sống chung với chồng là Kiếm – “người hùng” của quân đội quốc gia. Cô yêu anh bộ đội Lượng. Nhưng đó là một mối tình ngang trái vì Lượng không thể lấy Xiêm. Quan điểm cách mạng không cho phép anh lấy vợ của người khác. Trong một trận đánh đồn, Lượng đã bắt Kiếm và trả về nhà cho Xiêm. Trong trường hợp sống không hạnh phúc, người phụ nữ sẵn sàng đi tìm hạnh phúc mới. Như trường hợp của Mị trong Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài). Mị sống với A Sử không hạnh phúc vì anh ta đối xử thô bạo với vợ. Mị đã bỏ A Sử để đi theo A Phủ, ban đầu chỉ là đi theo tiếng gọi tự do, sau đó hai người nảy sinh tình yêu. Họ đã xây dựng một mái ấm gia đình ở Phiềng Sa. Ở đó, cuộc sống không giàu nhưng Mị cảm thấy hạnh phúc vì có người chồng biết tôn trọng vợ, biết chăm lo cuộc sống gia đình. Trong Trước giờ nổ súng (Phan Tứ), thiếu phụ Pha cũng không thể sống với người chồng đang làm sĩ quan trong đồn địch. Cô bỏ chạy theo anh bộ đội Lương. Cuộc hành quân rất vất vả nhưng được sống bên cạnh Lương là những ngày hạnh phúc đối với cô. Ta cũng gặp nhiều phụ nữ bỏ chồng để đi tìm tự do, sau đó cũng tìm được cho mình một tổ ấm, đơn sơ mà hạnh phúc, như: Vàng Thị Mỹ (Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng – Nguyên Ngọc), Kan Lịch (Kan Lịch – Hồ Phương), Tam (Vùng cao – Đỗ Quang Tiến).v.v. Cuộc sống vợ chồng không phải lúc nào cũng bình yên. Có những lúc vợ chồng PHẠM NGỌC HIỀN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 35 không bằng lòng nhau, nhưng họ biết nhường nhịn để giữ hạnh phúc. Nhiều cô vợ xích mích với chồng hoặc gia đình chồng nên sống ly thân, bỏ về nhà cha mẹ đẻ. Nhưng khi chồng đi bộ đội, các cô đã trở về để chồng yên tâm lên đường, như vợ chồng cô Quế (Làng cao - Sao Mai), vợ chồng cô Nguyệt (Người ở nhà - Nguyễn Địch Dũng).v.v. Nhiều phụ nữ còn khổ sở do tính gia trưởng của người chồng. Ông Vạn mắng chửi vợ liên miên, nhưng gia đình vẫn bình yên vì bà Vạn biết nhẫn nhịn. Bà phấn đấu trở thành xã viên xuất sắc, được cử đi dự hội nghị ở huyện. Ông mới nhận ra vị trí quan trọng của vợ và mua tặng bà Bộ quần áo mới (Ngô Ngọc Bội). Cũng tương tự như vậy đối với truyện Vợ chồng ông lão phó mộc (Nguyễn Phan Hách). Từ khi bà Nhỡ được cử đi dự hội nghị ở trung ương, ông Tam mới hết khinh thường vợ. Điều đó cho thấy, sự bất bình đẳng nam nữ trong gia đình sẽ được giải quyết khi người vợ biết phấn đấu vươn lên. Khi người vợ đã thành công ngoài xã hội thì người chồng sẽ nể trọng vợ, gia đình sẽ hạnh phúc. Quan điểm đó cũng được thể hiện trong các tác phẩm: Một cặp vợ chồng (Nguyễn Khải), Người vợ (Nguyễn Địch Dũng), Câu chuyện xảy ra không tránh khỏi (Vũ Thị Thường), Dòng nước (Nguyễn Sơn Hà), Cô bánh xích (Hồ Thủy Giang).v.v. Trong thời chiến, người chồng thường sống xa nhà nên người ta cũng thường nhắc đến sự chung thủy của người vợ. Văn xuôi giai đoạn này rất ít nhắc đến trường hợp vợ ngoại tình khi chồng đi chiến đấu xa nhà. Các nhà văn chỉ miêu tả những người vợ hậu phương đảm đang chung thủy, là chỗ dựa cho người con trai nơi tiền tuyến. Trong Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), chính ủy Kinh sống xa nhà suốt thời chống Pháp đến thời chống Mỹ. Nhưng vợ ông vẫn không hề than vãn, chỉ lo nuôi con, hăng hái tham gia phong trào phụ nữ ba đảm đang để chi viện chiến trường, mong đến ngày chiến thắng, đoàn tụ gia đình. Trong mỗi đội quân tóc dài ở miền Nam đều có mặt những người vợ có chồng tập kết ra Bắc: Nhật ký người ở lại (Nguyễn Quang Sáng), Không chịu sống quỳ (Nguyễn Hải Trừng), Gia đình má Bảy (Phan Tứ), các truyện trong tập Từ tuyến đầu Tổ quốc.v.v. Chính quyền Diệm ép buộc những người phụ nữ này ký giấy ly hôn với những người chồng đang ở miền Bắc. Nhiều binh lính, sĩ quan quốc gia cưỡng ép những người vợ có chồng tập kết. Có những người vợ chấp nhận cái chết để giữ lòng chung thủy với chồng và trung thành với cách mạng như người vợ trong Im lặng (Nguyễn Thi), chị Sứ (Hòn Đất – Anh Đức).v.v. Con sông Bến Hải trở thành nơi gửi gắm tâm sự thủy chung của những người vợ ở bờ Nam: “Sông Bến Hải vẫn một dòng không có bên trong bên đục, sóng nước Cửa Tùng vẫn rào rạt ngày đêm. Lòng dạ đôi bờ không cắt ngăn, chỉ có hàng trăm mũi súng, hàng vạn thước dây thép gai vô hình của kẻ địch ngăn cách” (Đôi bờ - Nguyễn Dậu, Nhất Hiên). Người vợ có thể bỏ chồng khi chồng chạy theo địch nhưng không bao giờ bỏ chồng khi chồng đang chiến đấu và công tác xa nhà. Đó cũng là quan điểm chung của những người vợ thời chiến. Có thể nói, những quan niệm về tình yêu và hôn nhân trong văn xuôi Việt Nam 1945 – 1975 chưa phản ánh hết sự đa dạng vốn có của cuộc sống. Một số vấn đề khác có liên quan tới lĩnh vực này chưa được nói tới đầy đủ. Ví dụ như nhu cầu thể xác của SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 36 nam nữ, sự phức tạp nội tâm trong tình yêu, vấn đề “môn đăng hộ đối” trong hôn nhân.v.v. Thực ra, những vấn đề này vẫn tồn tại trong xã hội Việt Nam thời chiến tranh. Nhưng nhà văn né tránh, không miêu tả vì không có lợi cho công cuộc cách mạng. Những góc khuất này sẽ được đề cập đến một cách tỉ mỉ, sáng tỏ trong các tác phẩm văn xuôi sau 1975. Tóm lại, văn học cách mạng Việt Nam 1945 – 1975 có nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu và lao động, giáo dục lối sống mới cho thế hệ trẻ, bởi vậy, phải hướng tới những tấm gương người tốt việc tốt. Những quan niệm về tình yêu và hôn nhân của thanh niên trong văn xuôi giai đoạn này cũng phù hợp với các chủ trương do chính phủ đề ra. Mặc dù nó chưa phản ánh hết những phức tạp vốn có của đời sống nhưng cũng có những yếu tố tích cực, giáo dục thanh niên ý thức sống vì cộng đồng. Nó góp phần tạo ra nét độc đáo trong quan niệm nghệ thuật về con người của văn học giai đoạn này so với các giai đoạn khác. TÀI LIỆU THAM KHẢO Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (chủ biên). (2006). Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (tập 2), Hà Nội: NXB Giáo dục. Phan Cự Đệ. (1974 – 1975). Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Hà Nội: NXB Đại học & Trung học chuyên nghiệp. Phùng Ngọc Kiếm. (1998). Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975, Hà Nội: NXB Đại học quốc gia Hà Nội. Phong Lê (1980). Văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa, Hà Nội: NXB Khoa học xã hội. Nhiều tác giả. (2002). Truyện ngắn Việt Nam thế kỷ XX (giai đoạn 1946 – 1975), Hà Nội: NXB Kim Đồng. Ngày nhận bài: 08/3/2019 Biên tập xong: 15/4/2019 Duyệt đăng: 20/4/2019
File đính kèm:
- quan_niem_ve_tinh_yeu_va_hon_nhan_trong_van_xuoi_cach_mang_v.pdf