Phát triển tài chính và bất bình đẳng thu nhập - Bằng chứng thực nghiệm tại Đông Nam Á
Tóm tắt
Khi bất bình đẳng thu nhập làm suy giảm sự gắn kết và niềm tin xã hội, thì một điều quan trọng
cần xem xét là trong các nền kinh tế đang phát triển như khu vực Đông Nam Á, phát triển tài chính
sẽ làm giảm hay làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng thông qua huy động và phân bổ tiết
kiệm vào đầu tư sản xuất. Bài viết sử dụng kỹ thuật ước lượng GMM cho dữ liệu bảng từ 8 quốc
gia trong giai đoạn 1992 – 2016. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ hình chữ U thuận giữa
tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người và bất bình đẳng thu nhập, trong khi đó, giữa phát triển
tài chính và bất bình đẳng có mối quan hệ theo hình chữ U ngược. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn
nhân lực có tác động âm có ý nghĩa đến bất bình đẳng, tức có ý nghĩa quan trọng làm cho phân phối
thu nhập trở nên bình đẳng hơn. Các phát hiện này đưa đến một số hàm ý chính sách cho Chính phủ
các nước vùng Đông Nam Á
huẩn. Nguồn: Tính toán từ phần mềm Stata. Kết quả ước lượng tại Bảng 4 kết quả thực nghiệm của mô hình tuyến tính (phương trình 3.1) bằng phương pháp tiếp cận dữ liệu bảng động GMM, với các mô hình 1 và 2 lần lượt từng biến DOC và BRM được đưa vào làm dẫn xuất cho phát triển tài chính. Tuy nhiên kết quả cuả chúng có sự tương đồng. Biến trễ phụ thuộc GINI(-1) có ý nghĩa thống kê, ngụ ý rằng GMM là một phương pháp ước lượng thích hợp và có thể dựa vào kết quả thực nghiệm để thực hiện suy luận thống kê. Song kết quả ước lượng về tác động của GDP bình quân đầu người đến bất bình đẳng trái ngược với giả thuyết hình chữ U ngược của Kuznets. Bất bình đẳng thu nhập ban đầu giảm khi thu nhập bình quân đầu người tăng và tăng sau khi tốc độ tăng GDP bình quân đầu người vượt qua ngưỡng khoảng 7% trong mô hình 1 và 4% trong mô hình 2. Điều này có thể giải thích bởi phạm vi và thời gian nghiên cứu của Kuznets là giai đoạn thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 cho các quốc gia công nghiệp hóa. Trong khi đó giai đoạn nghiên cứu của bài viết từ 1992 – 2016 cho phạm vi các quốc gia đang phát triển khu vực Đông Nam Á. Hơn nữa, theo Kuznets, U ngược không là mối quan hệ khả dĩ duy nhất mà chỉ là xu hướng. Theo Bowman (1993), ý tưởng Kuznets về “điểm ngoặt” không phù hợp vì khác biệt lớn giữa các nước và không áp dụng được mô thức khái quát nào cho mối quan hệ giữa mức phát triển và bất bình đẳng. Bối cảnh kinh tế, thể chế và chính trị ở mỗi nước sẽ tác động lên kết quả. Về tác động của phát triển tài chính đến bất bình đẳng, hệ số của các biến phát triển tài chính và bình phương của nó lần lượt là dương và âm, điều này cho thấy tồn tại một mối quan hệ hình chữ U ngược về phát triển tài chính và bất bình đẳng, tương đồng với nghiên cứu của Jaunch và Watzka (2012) khi thực hiện nghiên cứu cho mẫu các quốc gia có thu nhập trung bình. Kết quả thực nghiệm đã thể hiện mối quan hệ giữa phát triển tài chính và bất bình đẳng thu nhập có hình dạng chữ U ngược, phù hợp giả thuyết thứ 3 của Greenwood và Jovanovic (1990). Trong giai đoạn đầu, khi khu vực tài chính kém phát triển, bất bình đẳng gia tăng cùng với sự phát 47 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019 triển của thị trường tài chính nhưng khi tỷ lệ tín dụng nội địa được cung ứng bởi khu vực tài chính/GDP và tỷ lệ tiền theo nghĩa rộng/GDP vượt qua giá trị ngưỡng lần lượt là 245% và 116% thì nó sẽ có tác động làm giảm bất bình đẳng, khi có nhiều chủ thể được tiếp cận với các trung gian tài chính. Trong các biến kiểm soát được đưa vào trong mô hình, chỉ có biến HDI mang tác động âm có ý nghĩa thống kê đến bất bình đẳng. Khi chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện khoảng cách phân phối thu nhập sẽ được thu hẹp. Các kết quả thu được như trên mang ý nghĩa thống kê và kinh tế nhất định khi các kiểm định tính nội sinh và tương quan bậc hai được đảm bảo, với cả hai dẫn xuất cho phát triển tài chính. 5. Kết luận và hàm ý chính sách Tại Đông Nam Á, nơi có một số nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới, với tổng quy mô nền kinh tế hiện nay khoảng 2,6 nghìn tỷ USD, tương đương với quy mô nền kinh tế của Anh Quốc. Tuy nhiên, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo đang ngày càng được nới rộng trong khu vực. Báo cáo của UNESCAP cho rằng “Đông Nam Á là tiểu vùng có nhiều tiến bộ nhất trong tiến trình hướng tới Mục tiêu 9 trong các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) tập trung vào công nghiệp, đổi mới và cơ sở hạ tầng. Khu vực này cũng đạt một số tiến bộ hướng tới Mục tiêu 8 tập trung vào công việc và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, Đông Nam Á đang chứng kiến sự bất bình đẳng mở rộng, một trở ngại để đạt được Mục tiêu 10 giảm bất bình đẳng trong và giữa các quốc gia. Nếu tình trạng bất bình đẳng về thu nhập không tăng lên trong thập kỷ qua, gần 140 triệu người nữa có thể đã thoát khỏi đói nghèo. Nhiều phụ nữ hơn sẽ có cơ hội được đi học và hoàn thành chương trình giáo dục trung học. Cũng sẽ có thêm nhiều người được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, vệ sinh cơ bản hoặc thậm chí có tài khoản ngân hàng hơn. Số người chết vì bệnh tật theo đó có thể cũng sẽ giảm xuống. Do đó, việc thu hẹp khoảng cách thu nhập được đặt ra cho các quốc gia trong khu vực. Trong phạm vi bài viết này, kết quả thực nghiệm cho thấy mối quan hệ hình chữ U thuận giữa tăng trưởng GDP bình quân đầu người với bất bình đẳng thu nhập. Trong khi đó, giữa phát triển tài chính với bất bình đẳng có dạng hình chữ U ngược với cả hai dẫn xuất là tỷ lệ tín dụng nội địa được cung ứng bởi khu vực tài chính/GDP và tỷ lệ cung tiền/GDP trường hợp các quốc gia đang phát triển khu vực Đông Nam Á. Qua đó cho thấy phát triển tài chính, đặc biệt ở khu vực nông thôn, nơi tập trung một bộ phận lớn những người nghèo, cùng với tăng cường mở rộng tín dụng và cung tiền sẽ mang đến tác động có lợi cho việc làm giảm bất bình đẳng thu nhập trong xã hội. Riêng tại Việt Nam, trong bối cảnh thị trường tín dụng đen thâm nhập khá mạnh mẽ khu vực nông thôn nên cách thức khả thi nhằm cải thiện khả năng tiếp cận nguồn tài trợ của người nghèo là hoàn thiện cơ sở hạ tầng tài chính, thúc đẩy hoạt động của tổ chức tài chính vi mô và ngân hàng hợp tác phát triển. Ngoài ra, chất lượng nhân lực tốt thể hiện qua trình độ, sức khỏe của người lao động, nó được hình thành từ quá trình tích lũy về giáo dục và y tế của mỗi người. Khi những yếu tố này được cải thiện sẽ giúp thu hẹp khoảng cách thu nhập. Tại các quốc gia đang phát triển Đông Nam Á, việc đầu tư vào giáo dục, nâng cao tay nghề sẽ góp phần làm giảm bất bình đẳng. Tuy nhiên cần chú ý về kênh gián tiếp mà phát triển tài chính tác động đến bất bình đẳng thu nhập bằng cách thay đổi nhu cầu thành phần lao động. Demirguc-Kunt và Levine (2009) cho rằng nếu các dịch vụ tài chính mở rộng thúc đẩy nhu cầu 48 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019 về người lao động có tay nghề thấp, tiền lương của những người lao động đó sẽ góp phần làm giảm bất bình đẳng. Mặt khác, nếu các dịch vụ tài chính gia tăng làm tăng nhu cầu về lao động có tay nghề cao và do đó mức lương tương đối của họ, bất bình đẳng thu nhập có thể trở nên lớn hơn. Như vậy bài viết đã cho thấy mối quan hệ tài chính – bất bình đẳng trên cả phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn. Tuy nhiên, do có nhiều chỉ số phản ánh mức độ phát triển tài chính, trong đó tỷ lệ tiền có tính thanh khoản (M3)/GDP hay chỉ số phát triển tài chính tích hợp chưa được sử dụng như nghiên cứu của Enowbi Batuo và cộng sự (2010). Hơn nữa, theo Amir-ud-Din và cộng sự (2008), khi dân chủ được cải thiện sẽ củng cố các thể chế và giúp hiện thực hóa lý tưởng công bằng trong xã hội. Do đó, hướng mở rộng lý tưởng cho nghiên cứu là bổ sung thêm một số các chỉ tiêu đánh giá phát triển tài chính và biến kiểm soát là chất lượng thể chế vào trong mô hình để làm sáng tỏ thêm bằng chứng thực nghiệm. Tài liệu tham khảo Tiếng Việt Lê Quốc Hội & Lê Văn Chiên. Phát triển thị trường tín dụng và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và phát triển, 238, 13 – 21. Trang web: tang-a59481.html, truy cập ngày 31/12/2018. Tiếng Anh Arellano, M., & Bond, S. (1991). Some tests of specification for panel data: Monte Carlo evidence and an application to employment equations. The review of economic studies, 58(2), 277-297. Amir-ud-Din, R., Rashid, A., & Ahmad, S. (2008). Democracy, Inequality and Economic Development: The Case of Pakistan. Banerjee, A. V., & Newman, A. F. (1993). Occupational choice and the process of development. Journal of political economy, 101(2), 274-298. Bowman, K. S. (1997). Should the Kuznets effect be relied on to induce equalizing growth: evidence from post-1950 development. World Development, 25(1), 127-143. Clarke, G. R., Xu, L. C., & Zou, H. F. (2006). Finance and income inequality: what do the data tell us?. Southern economic journal, 578-596. Demirguc-Kunt, A., & Levine, R. (2009). Finance and inequality: Theory and evidence. Annu. Rev. Financ. Econ., 1(1), 287-318. Enowbi Batuo, M., Guidi, F., & Mlambo, K. (2010). Financial development and income inequality: Evidence from African Countries. Galor, O., & Zeira, J. (1993). Income distribution and macroeconomics. The review of economic studies, 60(1), 35-52. Greenwood, J., & Jovanovic, B. (1990). Financial development, growth, and the distribution of income. Journal of political Economy, 98(5, Part 1), 1076-1107. Goldin, C., & Katz, L. F. (2008). Transitions: Career and family life cycles of the educational elite. American Economic Review, 98(2), 363-69. 49 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019 Jauch, S., & Watzka, S. (2016). Financial development and income inequality: a panel data approach. Empirical Economics, 51(1), 291-314. Kuznets, S. (1955). Economic growth and income inequality. The American economic review, 45(1), 1-28. Law, S. H., & Tan, H. B. (2009). The role of financial development on income inequality in Malaysia. Journal of Economic Development, 34(2), 153. Masih, A. (2018). Is the relationship between financial development and income inequality symmetric or asymmetric? new evidence from South Africa based on NARDL. University Library of Munich, Germany. Ortiz, I., & Cummins, M. (2011). Global inequality: beyond the bottom billion–a rapid review of income distribution in 141 countries. Piketty, T., & Saez, E. (2003). Income inequality in the United States, 1913–1998. The Quarterly journal of economics, 118(1), 1-41. Seven, U., & Coskun, Y. (2016). Does financial development reduce income inequality and poverty? Evidence from emerging countries. Emerging Markets Review, 26, 34-63. World Bank. 2012. Global Financial Development Report 2013: Rethinking the Role of the State in Finance. World Bank, Washington, DC.
File đính kèm:
- phat_trien_tai_chinh_va_bat_binh_dang_thu_nhap_bang_chung_th.pdf