Người lữ hành dũng cảm
TÓM TẮT
Bài viết bước đầu giới thiệu chân dung và sự nghiệp của A.N.Radisev (1749 – 1802),
nhà tư tưởng, nhà văn, người tiền trạm của phong trào Tháng Chạp và Cách mạng dân
chủ Nga những năm cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, người dũng cảm tuyên truyền cách
mạng, ca ngợi tự do dân chủ, công khai kêu gọi nhân dân vùng lên đấu tranh lật đổ ách áp
bức chuyên chế, thủ tiêu chế độ nông nô.
Radisev cũng là người mở ra một con đường hoàn toàn mới cho sự phát triển của thơ
ca cách mạng Nga. Cống hiến của Radisev có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sáng tác của A.X.
Puskin và nhiều nhà thơ Tháng Chạp khác.
ả tuần lễ, và để họ không chết đói ngay, hắn hào phóng ban cho họ ăn mỗi ngày một bữa”. Tên địa chủ ở Mednoe nhẫn tâm bán cả người lão bộc trung thành trước đây từng cứu hắn khỏi chết đuối, cả bà vú nuôi từng chăm bẵm hắn suốt thời ấu thơ, bán luôn cả cô gái nông dân mà hắn đã cướp đoạt trinh tiết Còn tên địa chủ ở Liuban, tác giả đã phải căm uất thốt lên khi chứng kiến sự lộng hành, tàn bạo của hắn: “Thật khủng khiếp, hỡi kẻ mất nhân tính, trên thân thể mỗi nông nô của mi, ta đều thấy dấu roi trừng phạt” v.v. Không chỉ có vậy, ở mức độ khái quát hơn, Radisev còn nhận rõ: chế độ nông nô chính là kẻ thù của tinh thần sáng tạo dân tộc, là nguyên nhân dẫn đến sự tổn thương đạo đức xã hội hết sức nặng nề. Bằng thực tiễn sinh động, ông chứng minh rằng, người nông dân trên thửa ruộng của mình sẽ làm lụng với tất cả “sự cần mẫn và siêng năng, tích cực và sáng tạo”, khác hẳn với người nông nô khốn khổ, bị hành hạ tối tăm mặt mũi, phải vắt kiệt mồ hôi của mình cho ruộng đất chủ nô. Đồng thời, một khi quan hệ chủ nô – nô lệ ngày càng đè nặng lên xã hội, đạo đức xã hội tất yếu sẽ bị phân hoá theo hai hướng: giai cấp quý tộc địa chủ ngày càng trở nên đồi bại, tàn nhẫn; còn giai cấp nông dân, nông nô ngày càng trở nên khiếp nhược, đớn hèn. Hậu quả là cả quốc gia và dân tộc cùng suy yếu. Cùng với chế độ nông nô, nền chuyên chế Nga hoàng và hết thảy bộ máy quan liêu, độc đoán của nó cũng trở thành đối tượng phê phán quyết liệt của Radisev. Trong Hành trình, vầng hào quang giả tạo từng bao trùm lên ngai vàng chuyên chế từ hàng chục thế kỉ nay đã bị xé toạc. Giấc mơ của người lữ hành về một Nga hoàng “hồi tâm phục thiện, ăn năn khiếp sợ vì tội lỗi của mình” (chương Spaskaia polest) thực sự là tiếng cười châm biếm cay độc, cảnh tỉnh mọi người. Sau giấc mơ, người lữ hành thấy rằng: “trên ngai vàng, tất cả những sa hoàng, giáo chủ, lãnh chúa, xuntan hay một danh vị gì đó đều chẳng là gì hết”. Dưới ngòi bút phê phán sắc sảo của Radisev, nền chuyên chế trở thành thể chế nguy hiểm cho xã hội không chỉ vì tất cả đều phụ thuộc vào quyền tối thượng của hoàng đế trên ngai mà còn vì đó là một bộ máy nhà nước độc đoán, bóp nghẹt mọi tư tưởng tự do dân chủ, vì các đại diện lớn nhỏ của nó đều là những hoàng đế không ngai, quan liêu, say sưa quyền lực và mặc sức hành hạ dân lành. Đó là viên quan thản nhiên nhìn những người dân sắp chết đuối mà không thèm động tay cứu giúp vì “điều đó không ghi trong chức danh của mình”, là viên chủ sự bưu điện phung phí tiền nhà nước trả lương cho vô số nhân viên để gửi đi khắp nơi những công văn lỗi thời, là viên tổng đốc cao hứng thưởng huân chương cho một gã lái buôn chỉ vì gã này hối lộ hắn một rổ sò 102 huyết, là viên quan toà đã bênh vực cho tên địa chủ một cách vô liêm sỉ vì chúng cùng hội cùng thuyền, là lũ hoàng thân xu nịnh, sẵn sàng vì một nụ cười vô thưởng vô phạt của Nga hoàng mà tâng bốc ông ta thành một quân vương vĩ đại v.v. Với những đại biểu như thế, hệ thống quan liêu của chính quyền chuyên chế rõ ràng là “chốn hùm beo” đối với nhân dân. Tất cả những người thấp cổ bé miệng, một khi đã rơi vào ma trận quái gở của hệ thống này, đều bị “ăn thịt”, “bị hành hạ đến sống dở, chết dở” Chính vì vậy, “hiện nay – Radisev kết luận – chúng ta phải quyết tâm xoá bỏ hoàn toàn những thể chế man rợ đó”. Khác hẳn với những bộ dạng quái dị, ghê tởm của lũ quý tộc địa chủ, hình ảnh người nông dân trong Hành trình được Radisev trìu mến miêu tả như hiện thân vẻ đẹp và ngọn nguồn sức mạnh của Tổ quốc Nga. Họ là những tráng đinh kéo thuyền trên sông, là những người “cày ruộng với lòng nhiệt tình vĩ đại”, thương yêu ngựa kéo hơn cả bản thân mình, là cô gái Anhiuta hồn nhiên, trong trắng, là những phụ nữ thôn quê chất phác, dầm chân trong nước lạnh giặt giũ cho gia đình. Họ cũng là những Lomonosov thông minh, hiếu học, những Khlopusa, Beloborodov và muôn ngàn chiến sĩ vô danh khác đã dũng cảm đi tiên phong trong cuộc khởi nghĩa Pugaso v.v. Bằng cái nhìn tỉnh táo, khách quan, Radisev không lí tưởng hoá nhân vật nông dân của mình mà chủ yếu tập trung xác lập dứt khoát một quy luật phát triển: những nông dân chân đất, tự phát hôm nay chắc chắn sẽ trở thành những chiến sĩ kiên trung, tự giác trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng ngày mai. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Nga, sứ mệnh chính trị của người nông dân đã được tiên đoán một cách vẻ vang và quyết liệt như thế. Tuy nhiên, trong Hành trình, ý tưởng về một cuộc cách mạng giải phóng nông dân như biện pháp đấu tranh duy nhất để cải tạo xã hội không phải xuất hiện và được định hình ngay lập tức. Để đi tới kết luận này, Radisev muốn bản thân người đọc cũng phải trải qua một hành trình gian nan trong nhận thức, tự mình đánh giá, lựa chọn đúng – sai. Từ “Khochilov” – nơi tác giả đưa ra phương án cải tạo xã hội một cách hoà bình, “từ trên xuống” đến “Tver” – nơi tư tưởng đấu tranh cách mạng “từ dưới lên” của Radisev được thể hiện triệt để với bài thơ Tự do ở dạng rút gọn, và cuối cùng là “Grodno” – nơi người lữ hành công khai kêu gọi nông dân khởi nghĩa, đó là một quá trình nhận thức mà theo đó, bằng những lập luận logic và dẫn chứng tiêu biểu, Radisev đã thuyết phục mọi người dứt khoát từ bỏ mọi ảo tưởng cải lương, chuẩn bị tinh thần dấn thân vào bão táp cách mạng. Mặc dù chỉ được in vỏn vẹn 650 bản nhưng ngay sau khi ra mắt, Hành trình của Radisev đã làm chấn động cả đời sống xã hội Nga. Đích thân Nữ hoàng Ekaterina II đã đọc cuốn sách này và không ngần ngại kết tội tác giả là “kẻ phản loạn nguy hiểm hơn cả Pugasov”. Lệnh trừng phạt đưa xuống! Ngày 30/6/1790, Radisev bị chính quyền bắt giam vào nhà ngục pháo đài Petropavlovsk và bị kết án tử hình. Hơn 5 tuần trong xà lim cấm cố, Radisev đã chuẩn bị tinh thần sẵn sàng lên đoạn đầu đài, lấy cái chết của mình làm trận chiến đấu cuối cùng với chính quyền chuyên chế. Tuy nhiên, sau đó, để lừa phỉnh và xoa dịu phần nào dư luận, Ekaterina II đã hạ lệnh “ân xá”, thay án tử hình Radisev bằng án lưu đày 10 năm ở đảo Ilimsk thuộc Sibir xa xôi. Trên con đường đến nơi đày ải, Radisev vẫn không chút ngã lòng: 103 Anh muốn biết tôi là ai, cần gì và đi đâu Tôi không phải muông thú, cỏ cây hay nô lệ Trước đó, bây giờ và sau này vẫn thế Tôi là tôi, chân chính một con người. Trong cảnh lưu đày khắc nghiệt, Radisev không sống an phận, thu mình. Ông bắt tay tìm hiểu nguồn tài nguyên giàu có của Sibir, nghiên cứu y học, chữa bệnh và mở lớp dạy học cho trẻ em địa phương Chính nơi đây, trên quan điểm một nhà triết học duy vật, Radisev đã viết bản luận văn xuất sắc Về con người, về cái chết và sự bất tử của con người để đấu tranh chống lại những biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm thần bí xung quanh hai vấn đề thể xác và linh hồn. Năm 1797, sau cái chết của Ekaterina II, Radisev được Tân vương Paven I giảm nhẹ hình phạt, chuyển về làng Nemsov tỉnh Kalutsk (gần Moskva) tiếp tục thụ án dưới sự quản thúc chặt chẽ của chính quyền địa phương. Năm 1801, Paven I chết, Alechsandr I lên nối ngôi, cũng là lúc hạn lưu đày của Radisev kết thúc. Ông trở về Peterburg và vào làm việc tại Uỷ ban cải cách pháp luật quốc gia. Tại đây, với hi vọng “bóng tối ảm đạm đã lùi về phía sau, trước mắt chúng ta là mặt trời rạng rỡ”, Radisev tích cực đấu tranh bảo vệ những quan điểm tiến bộ, hăng hái ủng hộ những dự án cải cách nhằm thay đổi luật lệ hà khắc của chế độ hiện hành. Thế nhưng, như tất cả những gì ông đã khẳng định trong các tác phẩm, nền chuyên chế bạo tàn không thể bị đánh đổ chỉ vì những dự án cải cách rời rạc, phiến diện, cải lương. Giữa kinh đô hoa lệ, Radisev vẫn là một người tù bị giam lỏng, luôn phải sống trong bầu không khí căng thẳng và thù địch. Các thế lực phản động trong triều đã tìm đủ mọi cách cô lập, đe doạ, chèn ép, đẩy ông đến chỗ suy sụp tinh thần. Không thể chịu đựng hơn nữa, ngày 12/9/1802, Radisev đã uống thuốc độc tự sát, để lại cho mai sau lời trăng trối căm hờn: “Rồi hậu thế sẽ trả thù cho tôi!”. Và hậu thế đã không quên ông, người lữ hành gan góc một mình đi trước mở đường cho phong trào đấu tranh cách mạng. A.X. Puskin từng viết trong bản thảo bài thơ Đài kỉ niệm nổi tiếng: “Theo Radisev tôi ca ngợi tự do”. Những tác phẩm của Radisev từng bị cấm đoán ở Nga đã được A.I.Ghertsen in lại đầy đủ ở Luân Đôn năm 1858. Trong bài báo Về lòng tự hào dân tộc của người Đại Nga, V.I.Lenin cũng dành cho Radisev những lời ngợi ca trang trọng: “Điều đau lòng nhất đối với chúng ta là nhìn thấy và cảm thấy Tổ quốc tươi đẹp của chúng ta phải chịu biết bao bạo lực áp bức, lăng nhục của bọn đao phủ của Nga hoàng, của bọn quý tộc và bọn tư bản. Chúng ta tự hào rằng những hành động bạo lực đó đã gây ra sự phản kháng trong nhân dân chúng ta, trong nhân dân Đại Nga, rằng nhân dân đó đã sản sinh ra Rađisep, những người phái Tháng Chạp, những người cách mạng – trí thức bình dân những năm 1870- 1880”. Dù chính quyền Nga hoàng đã hèn hạ san phẳng mộ Radisev nhưng vào một ngày thu nắng đẹp năm 1918, chỉ mấy tháng sau thành công của Cách mạng Tháng Mười, chính quyền Xô viết non trẻ thành phố Petrograt (tức Sant Peterburg ngày nay) đã long trọng khánh thành tượng đài kỉ niệm ông trên quảng trường Dvorsovoi lịch sử. Tinh thần Radisev bất tử trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản Nga. 104 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. A.N.Sokolov, Lịch sử văn học Nga nửa đầu thế kỉ XIX, M., 1976 (tiếng Nga). 2. P.A.Orlov, Lịch sử văn học Nga thế kỉ XVIII, M., 1991 (tiếng Nga). 3. L.D.Gromova (chủ biên), Lịch sử văn học Nga thế kỉ XI – XIX, t.1, M., 2000 (tiếng Nga). 4. M.G.Kachurin, Văn học Nga thế kỉ XIX lớp 10, t.1, M., 2002 (tiếng Nga). 5. Nhiều tác giả, Từ điển văn học (bộ mới), H., 2004.
File đính kèm:
- nguoi_lu_hanh_dung_cam.pdf