Nghiên cứu hệ tiêu chí đo lường vốn xã hội ở Việt Nam
Tóm tắt: Vốn xã hội được coi là một nguồn vốn quan trọng cho sự phát triển bền vững của một
quốc gia, một cộng đồng hay tổ chức, đặc biệt trong bối cảnh mới của nền kinh tế số và cách mạng
công nghiệp 4.0. Mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu về phương thức đo lường vốn xã hội, nhưng
cho tới nay việc đo lường vốn xã hội vẫn còn nhiều tranh luận. Bài viết nghiên cứu quan niệm về
vốn xã hội, các tiêu chí đo lường vốn xã hội của các nước, của các tổ chức quốc tế và khuyến nghị
cho Việt Nam
lưới gắn kết - kết nối, mạng lưới bắc cầu nối, mạng lưới bắc cầu nối - kết nối; chiều tri nhận bao gồm 2 khía cạnh: lòng tin cụ thể và lòng tin tổng quát. 3.2. Một số khuyến nghị vận dụng hệ tiêu chí đánh giá VXH ở Việt Nam Thứ nhất, mở rộng và phát triển tiếp các nghiên cứu thực nghiệm Phải nói rằng, những nghiên cứu thực nghiệm và ứng dụng về VXH ở nước ta, cho đến nay, vẫn còn dừng lại ở giai đoạn khởi động. Chúng ta chỉ mới có những nghiên cứu về VXH ở một số doanh nghiệp ở khu vực đô thị, hoặc ở vài ba cộng đồng làng xã ở khu vực nông thôn. Thế nhưng, trong đời sống thực tiễn, việc tạo dựng, duy trì và sử dụng VXH lại đang diễn ra sôi động ở khắp mọi nơi. Do đó, mở rộng và phát triển các nghiên cứu thực nghiệm sẽ giúp hoàn thiện các quan niệm về VXH và đo lường VXH ở Việt Nam. Thứ hai, xây dựng phương thức chung nhất trong đo lường VXH Về mặt lý luận, nhìn chung, các nghiên cứu lý luận về VXH ở Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn. Chúng ta chỉ mới giới thiệu được một số quan điểm lý thuyết và khuynh hướng nghiên cứu chính của các tác giả nước ngoài. Vì vậy, một trong những vấn đề đặt ra là chúng ta cần phải xây dựng những quan điểm lý thuyết mới, khái quát hóa từ thực tiễn của việc tạo dựng, duy trì và sử dựng VXH ở Việt Nam, kể cả trong quá khứ cũng như trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa hiện nay. Những luận điểm lý thuyết mới như vậy không chỉ soi đường cho các nghiên cứu thực nghiệm, mà quan trọng hơn nó còn giúp rất nhiều cho các nhà quản lý và hoạch định chính sách trong việc phát huy những mặt tích cực, đồng thời hạn chế những biểu hiện tiêu cực kéo theo của VXH trong việc chỉ đạo thực tiễn, cũng như trong việc xây dựng các dự án phát triển con người và xã hội ở Việt Nam trong thời gian sắp tới. Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện tính sẵn có và khả năng tiếp cận đến số liệu thống kê về VXH Như đã phân tích, VXH là một lĩnh vực nghiên cứu còn đang rất mới mẻ ở Việt Nam. Hiện nay trong nghiên cứu đo lường thực nghiệm gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu thập số liệu thống kê và tiếp cận đến nguồn số liệu thống kê. Chúng ta cũng thừa nhận rằng, một số nội dung và khía cạnh của VXH, muốn đo lường được thì cần phải có số liệu. Do vậy, để hoàn thiện việc xây dựng bộ tiêu chí đo lường VXH, cần thiết phải tăng đầu tư vào hệ thống thống kê. Để có số liệu thống kê chính xác nghĩa là phải mất tiền. Ở các quốc gia đang phát triển có mức thu nhập thấp, qui mô nền kinh tế nhỏ, thông tin liên lạc khó khăn và hệ thống hành chính không phát triển, chi phí đơn vị cho Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 36 việc thu thập số liệu có thể rất lớn. Do vậy, nhiều nước trong số đó cần phải có sự hỗ trợ tài chính từ bên ngoài, không chỉ đầu tư vào cơ sở hạ tầng, con người, trang thiết bị, mà còn cho chi phí thường xuyên, ít ra là trong ngắn hạn. Chúng ta cũng nhận ra rằng vấn đề này đòi hỏi các đối tác tài trợ tăng viện trợ tài chính cho thống kê và nhà nước cũng phải tăng phân bổ ngân sách trong nước cho thống kê. 4. Kết luận VXH có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế không chỉ đối với các nước trên thế giới, mà còn cả với Việt Nam. Sự hấp dẫn của khái niệm VXH nằm ở chỗ nó cho thấy tầm quan trọng của sự tin cẩn lẫn nhau, lòng quảng đại của con người, và sự cần thiết của những quyết định tập thể để giải quyết các vấn đề xã hội. Ý tưởng này cũng đối lập lại lập luận cho rằng, chế độ tư hữu minh bạch cộng với một hệ thống thị trường hoàn hảo, với sự tối đa hóa lợi ích cá nhân làm động cơ quyết định, sẽ đem lại phúc lợi cho mọi người mà không cần những “đức tính công dân”. Mặt khác, nhiều học giả cũng thấy rằng “cộng đồng tính” các hội đoàn tự nguyện, các liên kết dân sự có thể là giá đỡ quan trọng cho các nhóm xã hội khi họ đối mặt với những cú sốc về kinh tế, xã hội hay môi trường hiện nay. Điểm gặp nhau chung nhất của các cách tiếp cận nghiên cứu về VXH chính là sự đề cao các giá trị nhân văn và sức mạnh tiềm ẩn của chúng. Việc nghiên cứu hệ tiêu chí đo lường VXH có vai trò quan trọng để các nhà nghiên cứu, các học giả có những căn cứ khoa học cho những nghiên cứu thực nghiệm về đánh giá vai trò VXH trong các lĩnh vực khác nhau. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Vũ Quỳnh Anh (2015), Vốn xã hội của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế (nghiên cứu trường hợp của ba làng nghề ở đồng bằng sông Hồng), Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội. [2] Trần Hữu Dũng (2006), “Vốn xã hội và phát triển kinh tế”, Tạp chí Tia sáng, số 13. [3] Bùi Quang Dũng (2007), Xã hội học nông thôn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. [4] Nguyễn Trọng Hoài, Huỳnh Thanh Điền (2010), “Xây dựng khung phân tích vốn xã hội trong doanh nghiệp cho điều kiện Việt Nam - Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 6. [5] Trần Hữu Quang (2006), “Tìm hiểu khái niệm về vốn xã hội”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7. [6] Nguyễn Tuấn Anh (2010), Kinship as Social Capital: Economic, Social and Cultural Dimensions of Changing Kinship Relations in a Northern Vietnamese Village, Doctoral dissertation, Vrije Universiteit Amsterdam, The Netherlands, ISBN/EAN: 978-90-5335- 271-7. [7] Appold, J. Stephen, Nguyễn Quý Thanh (2004), The Prevalence and Costs of Social Capital among Small Businesses in Vietnam. Annual meeting of the American Sociological Association, American Sociological Association, San Francisco. [8] Babbie, E. (2001), The practice of social research, Wadsworth/Thomson Learning, London. [9] Bourdieu, P. (1986), “Forms of capital”, Richardson, J. Handbook of Theory and Research in the Sociology of Education, Greenwood Press, New York. [10] R. Burt. (2000), The Network Structure of Social Capital (Research in Organizational Behavior. Greenwich), CT. JAI Press. [11] Chen, X., Stanton, B., Gong, J., Fang, X., & Li, X. (2009), “Personal Social Capital Scale: Nguyễn Ngọc Sơn, Vũ Thị Thu Phương 37 An instrument for health and behavioral research”, Health Education Research, 24 (2). [12] Chen J., Lu C. (2007), “Social Capital in Urban China: Attitudinal and Behavioral Effects on Grassroots Self-Government”, Social Science Quarterly, Volume 88, Number 2. [13] Coleman, J. (1988), “Social capital and the creation of human capital”, American Journal of Sociology, 94. [14] Coleman, J., (1990), Foundations of Social Theory, Harvard University Press, Cambridge. [15] Fukuyama, F. (1995), Trust: the social virtues and the creation of prosperity, The Free Press, London. [16] Fukuyama, Francis (1997), The End of Order, Centre for Postcollectivist Studies, London. [17] Granovetter M.S. (1995), Getting a job, University of Chicago Press, Chicago. [18] Granovetter, M. S. (1973), “The strength of weak ties”, American Journal of Sociology, 78: 1360-80. [19] Grootaert, C., et al. (2004), Measuring Social Capital: An Integrated Questionnaire, World Bank Publications, Washington, D.C. [20] Hanifan (1916), The rural school community center, The Annals of the American Acadamey of Political and Social Science, 67:130-138. [21] Hair J.F.et al (2014), Multivariate Data Analysis, Pearson New International Edition. [22] Henson RK, Roberts JK. (2006), “Use of Exploratory Factor Analysis in Published Research: Common Errors and Some Comment on Improved Practice”, Educational and Psychological Measuremen, 66 (3). [23] Lin, N., Ye, X. and Ensel, W. M. (1999), “Social support and depressed mode: A structural analysis”, Journal of Health and Social Behaviour, 40: 334-59. [24] Narayan D. and Cassidy M.F. (2001), “A dimensional approach to measuring social capital: development and validation of a social capital inventory”, Current sociology, Vol. 49 (2): 59102. [25] Narayan, D., and Pritchett, L. (1997), Cents and Sociability. WorldBank Policy Research Working Paper No. 1796, World Bank, Washington, D.C. [26] Portes, A. (1998), “Social capital: its origins and applications in modern sociology”, Annual Review of Sociology, 22: 1-24. [27] Putnam, Robert D. (1993), “The Prosperous Community - Social Capital and Public Life”, The American Prospect, 4 (13). [28] Putnam, R. (1995), “Bowling alone: America’s decline in social capital”, Journal of Democracy 6. [29] Putnam, Robert D., (2000), Bowling Alone. The Collapse and Revival of American Community, Simon & Schuster, New York. [30] R. Rose (1998), Getting things done in an anti- modern society: social capital networks in Russia, World Bank, Social Development Department, Washington DC. [31] Roy, S., Tarafdar, M., Ragu-Nathan, T., S., Marsillac, E. (2012), “The Effect of Misspecification of Reflective and Formative Constructs in Operations and Manufacturing Management Research”, The Electronic Journal of Business Research Methods, Volume 10. [32] Uphoff, N. and Wijayaratna, C.M. (2000), “Demonstrated benefits from social capital: The productivity of farmer organizations in Gal Oya, Sri Lanka”, World Development 28 (11): 18751890 [33] V.Vella, D.Narajan (2006), “Building Indices of social capital”, Journal of Sociology, No 1. [34] Wang P., Chen X., Gong J., Jacques-Tiura A. J., (2013), “Reliability and Validity of the Personal Social Capital Scale 16 and Personal Social Capital Scale 8: Two Short Instruments for Survey Studies”, Soc Indic Res, DOI 10.1007/s11205-013-0540-3. [35] Williams, B., Brown, T., & Onsman, A. (2010), “Exploratory factor analysis: A five- step guide for novices”, Australasian Journal of Paramedicine, 8 (3). [36] tabid=87&News=1771&CategoryID=1 6 [37] Path Modeling with R.pdf Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 38
File đính kèm:
- nghien_cuu_he_tieu_chi_do_luong_von_xa_hoi_o_viet_nam.pdf