Nghiên cứu giải pháp thay thế hệ thống dầu bôi trơn sơ mi xi lanh cơ khí bằng hệ thống bôi trơn điện tử cho động cơ diesel tàu thủy
Tóm tắt
Bài báo giới thiệu giải pháp thay thế hệ thống bôi trơn sơ mi xi lanh cơ khí cho động cơ
diesel trong đội tàu của công ty VIPCO bằng hệ thống bôi trơn điên tử. Kết quả thử
nghiệm cho hiệu quả bôi trơn tăng lên, lượng tiêu thụ dầu nhờn giảm xuống góp phần
nâng cao hiệu quả khai thác động cơ diesel và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
ần đẩy; 7. Trục cam; 8. Ê cu hãm; 9. Vít chỉnh; 10. Piston Về thời điểm phun, trong hướng dẫn sử dụng của hãng Atlas quy định: ‘quá trình cấp dầu hoàn thành ngay trước khi xéc măng đi qua miệng phun dầu trên xi lanh động cơ’. Trong thực tế việc kiểm tra thực hiện trên dấu chuẩn ‘A’ của Maker. Đối với cụm bơm Atlas, thời điểm kiểm tra (hình 2) chính là điểm cuối hành trình của plunger (pumping end). Hình 2. Kiểm tra thời điểm bôi trơn Như vậy, do tính đồng bộ với tốc độ quay của động cơ, lượng dầu tiêu thụ tự động thay đổi phù hợp với sự thay đổi tốc độ quay của động cơ. Hệ thống bôi trơn xi lanh Atlas còn trang bị cơ cấu điều chỉnh lượng dầu xi lanh khi phụ tải thay đổi (Load Change Dependent lubrication - LCD). Cơ cấu tự động điều chỉnh lượng dầu xi lanh khi phụ tải thay đổi cho phép tăng lượng dầu xi lanh khi khởi động động cơ cũng như khi thay đổi phụ tải giúp giảm ma sát cũng giảm sự mài mòi của nhóm xéc măng - sơ mi xi lanh. Mặc dù hệ thống Atlas phục vụ máy chính tàu Petrolimex 16 là hệ thống bôi trơn dùng vòi phun dầu đa điểm nhưng thực tế khai thác đã bộc lộ nhiều vấn đề không phù hợp, ảnh hưởng lớn đến khai thác máy chính và con tàu. 3. Một số điểm hạn chế trong khai thác hệ thống bôi trơn cơ khí Các báo cáo không phù hợp trong khai thác máy chính tàu Petrolimex 16 được thống kê bao gồm: - Tiêu thụ dầu bôi trơn xi lanh rất lớn; - Không gian buồng đốt nhiều muội, cửa gió quét, khoang gió nạp bẩn; - Mức độ mài mòn xi lanh và xéc măng lớn hơn định mức; - Khói đen khi khai thác chế độ tải nhỏ hoặc không ổn định; - Lượng dầu thừa xả từ khoang gió quét xuống Scavenging drain tank cao. VIPCO đã nghiên cứu và tham vấn Maker để thực hiện một số giải pháp kỹ thuật nhưng không thành công. Trong quá trình kiểm tra, đo đạc, tìm hiểu, một số hệ thống bôi trơn sơ mi xi lanh mà chúng tôi đã thu thập được bao gồm: CHÚC MỪNG NĂM MỚI 2015 Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 41 – 01/2015 7 a. Thời điểm bôi trơn Đo kiểm tra thời điểm phun các lỗ phun dầu của từng xi lanh xác nhận số liệu không đều nhau và không đúng như thiết kế (hình 1). Bảng 1. Pumping end (ogqtk) after BDC Cylinder No 1 2 3 4 5 6 Maker Pumping end (sau BDC) 112 112 111.5 111.5 111 111 108.5 Nguyên nhân của tình trạng này có thể do các bơm dầu, mài mòn cơ cấu cam, sai lệch truyền động, Theo các báo cáo kỹ thuật của một số hãng chế tạo động cơ, sai số trong nhiều trường hợp có thể đạt đến 10o (gqtk). b. Tổ chức quá trình bôi trơn không tốt Rút piston kiểm tra xác nhận xéc măng các vùng khô, ướt không đều. Rãnh xéc măng, buồng đốt nhiều muội, khoang gió nạp nhiều cặn bẩn. Thực hiện khảo sát hệ thống bôi trơn dầu sơ mi xi lanh máy chính tàu Petrolimex 16 đã xác nhận một số đặc điểm sau đây: - Sơ mi xi lanh dùng rãnh ngắn sử dụng vòi phun (Injector) phù hợp với hệ thống bôi trơn áp suất cao; - Hệ thống bôi trơn xi lanh kiểu cổ điển dùng hệ thống cấp dầu bôi trơn xi lanh điều khiển cơ khí cổ điển, áp suất phun thấp chỉ làm việc phù hợp với sơ mi kiểu rãnh dầu lượn sóng (hình 3). Từ hai điểm trên nhận thấy hệ thống bôi trơn không phù hợp với kết cấu của sơ mi xi lanh, vòi phun vì dầu bôi trơn khó trải đều toàn chu vi mặt gương khi áp suất phun thấp và không ổn định. Đây chính là điểm yếu nhất của hệ thống bôi trơn xi lanh hiện tại của tàu Hình 3. Rãnh phân phối dầu (a) và rãnh phun dầu (b) c. Mức độ mài mòn nhóm xéc măng - xi lanh lớn Chúng tôi đã thực hiện rút piston, kiểm tra đo đạc số liệu, tính toán tốc độ mài mòn của sơ mi xi lanh. Số liệu ghi nhận được đối với các xi lanh hoạt động sau khoảng từ 3.150 đến 4.500 giờ như bảng sau đây. Bảng 2. Tốc độ mài mòn sơ mi xi lanh (mm/1.000 h) Cylinder No 1 2 3 4 5 6 Maker Pumping end (a BDC) 0.11 0.15 0.12 0.11 0.13 0.12 0.10 Nguyên nhân của tình trạng này có thể do chất lượng tạo màng dầu bôi trơn không đều. d. Lượng tiêu thụ dầu xi lanh cao Để khắc phục việc không phù hợp giữa kết cấu sơ mi xi lanh và hệ thống bôi trơn, lượng dầu bôi trơn xi lanh tàu Petrolimex 16 buộc phải điều chỉnh rất cao thậm chí vượt cả mức cao nhất theo khuyến cáo của maker. Tuy nhiên, do không có rãnh lượn sóng, lượng dầu cũng không được phân bố đều trên chu vi mặt gương mà chủ yếu bị bắn lên buồng đốt hoặc xuống khoang gió quét. CHÚC MỪNG NĂM MỚI 2015 Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 41 – 01/2015 8 VIPCO đã tham vấn hãng sản xuất, thực hiện thử nghiệm điều chỉnh giảm kết hợp với việc kiểm tra tình trạng nhóm piston - xéc măng - xi lanh trong phạm vi dưới 8 giờ hoạt động. Tuy nhiên, tất cả những biểu hiện đều cho thấy buộc phải duy trì suất tiêu hao dầu nhờn ở mức trung bình 1,9 g/kW/h cao hơn rất nhiều so với khuyến cáo của Maker (từ 1,4 g/kW/h đến 1,6 g/kW/h). Với việc phải duy trì lượng tiêu thụ dầu xi lanh cao như nêu trên dẫn tới chi phí khai thác cao, tác động xấu tới môi trường, kém tính cạnh tranh trên thị trường đặc biệt trong bối cảnh khó khăn của thị trường vận tải biển cũng như xu thế khai thác tàu theo hướng thân thiện với môi trường như hiện nay của ngành vận tải biển thế giới. Ngoài ra, các hậu quả còn phải gánh chịu như tạo muội trong buồng đốt động cơ, xu páp, vòi phun, tua bin tăng áp, nồi hơi kinh tế, đã rút ngắn tuổi thọ cũng như thời gian bảo dưỡng các cụm chi tiết này. 4. So sánh Atlas với hệ thống bôi trơn điều khiển điện tử Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ đặc biệt là công nghệ điều khiển, bên cạnh việc áp dụng kỹ thuật điều khiển điện tử cho hệ thống phun nhiên liệu vào động cơ tàu thủy các nhà chế tạo động cơ cũng đưa ra rất nhiều giải pháp nhằm cải thiện quá trình bôi trơn của động cơ trong đó có giải pháp áp dụng công nghệ điều khiển điện tử để điều khiển quá trình phun dầu vào xi lanh hay còn gọi hệ thống bôi trơn điện tử. a. Hệ thống bôi trơn xi lanh điện tử Sơ đồ kết cấu hệ thống bôi trơn đa điểm điều khiển bằng điện tử (gọi tắt là hệ thống bôi trơn điện tử) như trong hình 4. Hình 4. Sơ đồ khối các cụm chi tiết hệ thống bôi trơn điện tử Hoạt động của hệ thống: Dầu xi lanh với áp lực từ 40 bar đên 50 bar được cấp từ cụm bơm (Pump Stattion) đến cụm van phân phối rồi tiếp tục được cấp đến các vòi phun dầu xi lanh và sẽ phun vào xi lanh động cơ khi bộ MCU điều khiển mở các van điện từ đặt tại các cụm van phân phối (Alpha Lubricator tương ứng). Thời điểm phun dựa trên cơ sở của hai tín hiệu từ bộ chuyển đổi tín hiệu gồm tín hiệu từ điểm chết trên của xi lanh số 1 và vị trí của trục khuỷu và thường được phun vào xi lanh động cơ ở hành trình nén. Lượng dầu bôi trơn xi lanh trong 1 lần phun không đổi, lượng dầu đó được điều khiển do tần suất phun (tần suất đóng mở các van điện từ cấp dầu). Tần suất phun được tính toán và điều chỉnh dựa trên tín hiệu của phụ tải và tốc độ động cơ. Tần suất CHÚC MỪNG NĂM MỚI 2015 Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 41 – 01/2015 9 phun này thường tỷ lệ với áp suất có ích bình quân của động cơ (MEP). Trong quá trình hoạt động bình thường, hệ thống được điều khiển bởi bộ điều khiển chính (Main Control Unit - MCU). Nếu có bất kỳ sự không bình thường nào xảy ra trong khi hệ thống hoạt động, hệ thống báo động chung sẽ hoạt động và chi tiết của báo động sẽ được hiển thị trên màn hình giám sát theo dõi. Nếu MCU bị sự cố không thể hoạt động được, hệ thống dự phòng (Back up Control Unit – BCU) sẽ tự động hoạt động thay thế và hệ thống báo động bằng âm thanh hoạt động và đèn báo ‘BCU IN CONTROL’ trên màn hình điều khiển (HMI) sẽ sáng. Trường hợp cả MCU và BCU đều sự cố, hệ thống bảo vệ sẽ thực hiện giảm tốc độ động cơ. b. So sánh ưu nhược điểm So sánh ưu nhược điểm các hệ thống bôi trơn đa điểm kiểu cơ khí với kiểu điều khiển bằng điện tử: Bảng 3. So sánh hai hệ thống bôi trơn cơ khí và điện tử Chỉ tiêu đánh giá Hệ thống Atlas cơ khí Hệ thống Alpha điện tử Bơm cấp dầu xi lanh (Lubricator) Trục cam của bơm dầu dẫn động bởi trục cam động cơ làm áp suất dầu phun vào không đều và bị ảnh hưởng bởi tốc độ quay động cơ. Bơm tăng áp suất lai bởi động cơ điện kết hợp với bình tích năng giúp làm đều áp suất phun và không ảnh hưởng bởi vòng quay động cơ. Hành trình bơm (Pump stroke) Thay đổi (bằng vít điều chỉnh lượng dầu bôi trơn cấp vào xi lanh động cơ). Cố định. Áp suất phun Thấp (4 ÷ 5) bar, thay đổi trong toàn bộ quá trình cấp dầu vào xi lanh làm cho chất lượng phun thay đổi. Cao (40 ÷ 50) bar, ổn định trong suốt quá trình cấp dầu, phân bố trên diện tích bề mặt rộng hơn, lớp dầu trải đều hơn. Tần suất phun Đồng bộ vòng quay động cơ. Điều chỉnh được. Thời điểm phun (Timing) Sai lệch giữa các xi lanh, sai lệch với thiết kế do nhiều yếu tố như tình trạng kỹ thuật cụm bơm, độ mài mòn của hệ thống truyền động cơ khí, thời gian hoạt động của động cơ. Cố định và tối ưu hóa thời điểm cấp, đảm bảo chính xác, không chịu ảnh hưởng của các yếu tố mài mòn cơ khí do vậy không thay đổi sau thời gian hoạt động của động cơ. Suất tiêu hao dầu xi lanh (Feed rate) 1,2 ÷ 1,6 g/kW.h (thực tế cao hơn: Petrolimex 16 là 1,9 g/kW.h). Khoảng 0,8 g/kW.h tùy theo hàm lượng S (lưu huỳnh) và loại dầu xi lanh sử dụng. Lượng dầu tiêu thụ (Consumption) Điều chỉnh phụ thuộc tốc độ quay động cơ. Phụ thuộc tốc độ quay và phụ tải động cơ. Cách thức điều chỉnh lượng dầu bôi trơn cấp vào xi lanh động cơ Điều chỉnh bằng cách thay đổi hành trình có ích của piston tịnh tiến (bằng vít điều chỉnh), phức tạp và độ chính xác không cao. Điều chỉnh bằng cách đặt các thông số trên màn hình điều khiển (HMI) giúp đơn giản, chính xác, thuận lợi. Dầu cặn trong khoang gió quét Nhiều, khoang gió quét bẩn. Giảm thiểu, khoang gió quét sạch. 5. Kết quả và thảo luận So với hệ thống Atlas (bảng 4), tiêu thụ dầu xi lanh giảm 130 lít/ngày tương đương 43%. Dầu xi lanh đọng trong khoang gió quét xả về két dầu bẩn của khoang gió quét đã giảm đến 38 lít/ngày tương đương 58%.
File đính kèm:
- nghien_cuu_giai_phap_thay_the_he_thong_dau_boi_tron_so_mi_xi.pdf