Năng lực kinh doanh của doanh nhân trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong tiến trình hội nhập
Tóm tắt: Trong bài báo này, các tác giả đã khảo sát 300 doanh nhân ở tỉnh Thừa Thiên Huế với kỹ thuật phân ích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích nhân tố khẳng định (CFA) để tìm hiểu năng lực kinh doanh củahọ. Kết quả cho thấy trong số 10 năng lực được khảo sát thì đội ngũ doanh nhân trên địa bàn nghiên cứu đãđáp ứng tốt một số nhóm năng lực kinh doanh thành phần như: năng lực nắm bắt cơ hội, năng lực chuyênmôn nghiệp vụ, năng lực cam kết, năng lực thiết lập quan hệ, năng lực cá nhân với điểm trung bình đánh giátừ 4,01 trở lên của thang đo Likert. Trong khi đó, các nhóm năng lực còn lại như là năng lực học tập, nănglực phân tích – sáng tạo, năng lực định hướng chiến lược, năng lực tổ chức – lãnh đạo có mức độ đáp ứngthấp hơn với điểm trung bình từ 3,47 đến 3,82. Kết quả nghiên cứu này sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việcgợi mở các định hướng chính sách và giải pháp giúp hoàn thiện hơn năng lực kinh doanh của lực lượngdoanh nhân trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian tới.
là vừa có tầm quan trọng thấp, vừa có mức độ đáp ứng, tần suất sử dụng chưa cao đối với các giám đốc điều hành ở Việt Nam. Tuy nhiên, khi tổ chức có sự phát triển và lớn mạnh về qui mô, khối lượng công việc cần giải quyết ngày càng phức tạp hơn thì các kỹ năng này của các doanh nhân khi tham gia vào công tác tổ chức lãnh đạo trong doanh nghiệp cũng cần phải được chú trọng phát triển hơn. Nếu nhà quản trị doanh nghiệp không quan tâm đến công tác chuyển giao và chia sẻ quyền lực cho cấp dưới thì sẽ khiến cho đội ngũ nguồn nhân lực không phát huy được tay nghề, không phát huy tính sáng tạo, phát kiến trong công việc, và hiệu quả công việc sẽ không cao. Đối với nhóm năng lực học tập, khả năng đáp ứng hiện tại của các doanh nhân đối với nhóm năng lực này là chưa thực sự tốt (điểm trung bình đánh giá là 3,82). Năng lực này thể hiện thông qua khả năng học tập từ nhiều cách thức khác nhau (học từ trường lớp và từ thực tế công việc), chủ động học tập, cập nhật những vấn đề mới trong kinh doanh, áp dụng các kiến thức và kỹ năng vào hoạt động kinh doanh. Các khả năng này đều có mức độ đáp ứng thấp hơn so với mức độ quan trọng của chúng đối với sự thành công trong kinh doanh của doanh nhân. Ðiều này cũng có thể do ở nước ta nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng, các DN phần lớn đi lên từ các mô hình sản xuất gia đình, cá thể nhỏ lẻ. Khi có cơ hội làm ăn thì thành lập doanh nghiệp và các doanh nhân trở thành giám đốc. Một bộ phận khác làm giám đốc doanh nghiệp theo con đường “cha truyền con nối” nên họ trở thành giám đốc doanh nghiệp mà chưa trải qua một trường lớp đào tạo nào. Con đường trở thành chủ doanh nghiệp khá đơn giản này thường xuất hiện ở các DNNVV. Điều này dẫn đến những hạn chế về tầm nhìn, tâm lý làm ăn chụp giật, thiếu kiến thức kinh doanh trong kinh tế thị truờng, thiếu am hiểu luật pháp quốc tế trong kinh doanh của đội ngũ doanh nhân. Trong kinh doanh, đích đến của một doanh nhân là kiếm tìm lợi nhuận. Tuy nhiên, điều đó vẫn chưa đủ để tạo ra sự phát triển bền vững và toàn diện cho doanh nghiệp trong tương lai. Do đó, để đảm bảo sự phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu, các doanh nhân phải ý thức được rằng ngoài việc làm giàu cho bản thân, doanh nhân còn phải có năng lực thực hiện trách nhiệm với đội ngũ của mình, với khách hàng, với các đối tác kinh doanh, với cộng đồng xã hội và môi trường sinh thái. Đó chính là năng lực thực hiện trách nhiệm xã hội, là tinh thần của một doanh nhân thực thụ, là vũ khí cạnh tranh sắc bén trên thương trường đầy rẫy những cạm bẫy và chông gai. Tuy nhiên, kết quả khảo sát các doanh nhân trên địa bàn nghiên cứu cho thấy họ vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của nhóm năng lực kinh doanh Hoàng La Phương Hiền, Trương Tấn Quân Tập 126, Số 5C, 2017 72 này và mức độ đáp ứng hiện tại vẫn chưa cao so với tầm quan trọng của nó (điểm trung bình đánh giá là 3,70). 4 Kết luận Thông qua kết quả tổng hợp các nghiên cứu trước đây và thảo luận sâu đối với các chuyên gia, các tác giả bước đầu đã thành công trong việc phát triển thang đo phù hợp để đánh giá năng lực kinh doanh của đội ngũ doanh nhân tỉnh Thừa Thiên Huế. Dựa trên thông tin có được từ việc tiếp cận 300 doanh nhân trên địa bàn, kết quả phân tích cho thấy các nhóm năng lực kinh doanh thành phần của đội ngũ doanh nhân này đều thuộc nhóm “phát triển đúng hướng” tức là các doanh nhân đã nhận thức được tầm quan trọng của các nhóm năng lực kinh doanh này và cũng đã có những định hướng đúng đắn để hoàn thiện trong tương lai. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, trong đó các nền kinh tế và các doanh nghiệp đang đồng thời vừa hợp tác vừa cạnh tranh gay gắt, đã đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước những cơ hội cũng như những thách thức to lớn. Trong bối cảnh đó, doanh nhân Thừa Thiên Huế đã thực sự vững vàng tham gia vào tiến trình hội nhập với những thế mạnh về năng lực nắm bắt cơ hội, năng lực thiết lập quan hệ, năng lực cam kết, năng lực chuyên môn nghiệp vụ và năng lực cá nhân. Đây thực sự là điều kiện thuận lợi và là thế mạnh của doanh nhân trên địa bàn. Tuy nhiên, một số nhóm năng lực kinh doanh khác như là năng lực học tập, năng lực phân tích – sáng tạo, năng lực định hướng chiến lược, năng lực tổ chức – lãnh đạo thì mức độ đáp ứng hiện tại của các doanh nhân chưa cao. Các năng lực này cần được tiếp tục được hoàn thiện và phát triển hơn nữa trong tương lai để đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của bối cảnh kinh doanh mới, đặc biệt là những năng lực liên quan đến công tác tổ chức – lãnh đạo và định hướng chiến lược kinh doanh. Tài liệu tham khảo 1. Hoàng Văn Hoa (2010), Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam giai đoạn 2011–2020, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Ðặng Ngọc Sự (2012), Năng lực lãnh đạo – Nghiên cứu tình huống của lãnh đạo các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. 3. Lê Quân, Nguyễn Quốc Khánh (2012), Ðánh giá năng lực giám đốc diều hành doanh nghiệp nhỏ Việt Nam qua mô hình ASK, Tạp chí khoa học Ðại học Quốc gia Hà Nội, Chuyên san kinh tế và kinh doanh, số 28, 45–53. 4. Ngô Quý Nhâm (2013), Những yêu cầu về năng lực lãnh đạo dối với giám đốc điều hành ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, Truờng Ðại học Ngoại thương, số 66, 35–47 Jos.hueuni.edu.vn Tập 126, Số 5C, 2017 73 5. Cục thống kê tỉnh Thừa Thiên Huế (2016) , Niên giám thống kê 2015, Nxb. Thống kê, Thừa Thiên Huế. 6. Phùng Xuân Nhạ, Lê Quân, Hồ Như Hải (2012), Báo cáo kết quả khảo sát lãnh đạo doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam 2012, Kỷ yếu ngày nhân sự Việt Nam 2012, Nxb. Thông tin và truyền thông. 7. Ahmad, N. (2007), A Cross-Cultural Study of Entrepreneurial Competencies and Entrepreneurial Success in SMEs in Australia and Malaysia, The University of Adelaide, Ph.D. thesis. 8. Baum, J.R., Locke E.A., and Smith K.G. (2001), A multidimensional model of venture growth, Academy of Management Journal, 44(2), 292–303. 9. Bird, B. (1995), Towards a Theory of Entreprenuerial Competency, In Katzand, J. A., Brockhaus, R. H. (Eds.) Advances in Entrepreneurship, Firm Emergence and Growth. Middlesex, England, JAIPRESSINC. 10. Cantillon, R. (1755), Essai sur la nature du commerce en general, Ed. By Higgs, H. London: Macmillan. 11. Chandler, G. N. and Jansen, E. (1992), The founders self-assessed competence and venture performance, Journal of Business Venturing, 7(3), 223–236. 12. Drucker, P. F. (1985), Innovation and Entrepreneurship: Practice and Principles, London: Pan Books. 13. Ehrlich, E. (1986), America Expects Too Much from Its Entrepreneurial Heroes, Business Week, 33, July 28. 14. Hébert, R. F. and Link, A. N. (1989), In Search of the Meaning of Entrepreneurship, Small Business Economics, 1(1), 39–49. 15. Hoselitz, B. F. (1951), The Early History of Entrepreneurial Theory. In: Spengler, J. and Allen, W. (eds.), Essays in Economic Thought: Aristotle to Marshall, 193–220, Rand-McNally, Chicago, IL. 16. Leslie, J.B. & Peterson, M.J. (2011), The Benchmarks Sourcebook: Three Decades of Related Research, Center for Creative Leadership Press. 17. Martin, G. and Harry S. (1994), Managerial competences in small firms, Journal of Management Development , 13 ( 7), 23–34. 18. Man, T. W., Lau, Y. T. and Chan, K. F. (2002), The competitiveness of small and medium enterprises: A conceptualization with focus on entrepreneurial competencies, Journal of Business Venturing, 17 (2), 123–142. Hoàng La Phương Hiền, Trương Tấn Quân Tập 126, Số 5C, 2017 74 19. Man, T.W. (2001), Entrepreneurial competencies and the performance of small and medium enterprises in the Hong Kong services sector, Ph.D., Hong Kong Polytechnic University (Hong Kong), Management development, 13(7), 23–34. 20. Mitchelmore, S. and Rowley, J. (2010), Entrepreneurial Competencies: A Literature Review and Development Agenda, International Journal of Entrepreneurial Behaviour and Research, 16 (2), 92–111. 21. Muzychenko, O. and Saee, J. (2004), Cross-cultural professional competence in higher education, Journal of Management Systems, 16(4), 1–19. 22. Schumpeter, J. (1934), The Theory of Economic Development: An inquiry into profits, capital, credits, interest and the business cycle, Cambridge, Mass: Harvard University Press. 23. Yago, G., Barth, J. R. and Zeidman, B. (2007), Entrepreneurship in Emerging Domestic Markets: Barriers and Innovation, Springer: Milken Institute. 24. Zimmerer T. W. and Scarborough, N. M. (2005), Essentials of Entrepreneurship and Small Business Management, 4th edition, Upper saddle River, NJ: Prentice Hall, 263–270. BUSINESS COMPETENCIES OF ENTREPRENEURS IN THUA THIEN HUE PROVINCE IN THE PROCESS OF INTERNATIONAL INTEGRATION Hoang La Phuong Hien*, Truong Tan Quan HU – University of Economics, 99 Ho Dac Di St., Hue, Vietnam Abstract: In this paper, the authors carried out a survey of 300 entrepreneurs in Thua Thien Hue province using the methods of Exploratory Factor Analysis (EFA) and Confirmatory Factor Analysis (CFA) to study their business competencies. The results revealed that among 10 studied competencies, the entrepreneurs met the requirements of opportunity competency, technical competency, commitment competency, relationship competency, and personal competency with the average scores above 4,01 in the Likert scale. However, the remaining qualities such as learning competency, analysis – innovative competency, strategic competency, and organizing – leading competency have lower scores ranging from 3,47 to 3,82 points. These results would have important implications for entrepreneurs themselves, educators and also policymakers to improve business competencies of entrepreneurs in Thua Thien Hue province for the coming time. Keywords: business competencies, entrepreneurs, Thua Thien Hue, EFA, CFA
File đính kèm:
- nang_luc_kinh_doanh_cua_doanh_nhan_tren_dia_ban_tinh_thua_th.pdf