Một số vấn đề về cảm thụ âm nhạc của trẻ

Abstract: At present, with increasing development of the society, there are many opportunities for

children to approach to music. Children have good capacity in perceiving music through pitch,

length, volume, melody, rhythm, etc. In addition, according to age and experience, children

understand complex elements such as timbre, harmony, instrument, etc. It can be said that sense of

music of children is developed since early ages. Therefore, parents should pay attention to and

encourage their children to promote the potential and competence. This article provides some

knowledge to help parents guide their children to develop the music capacity.

pdf5 trang | Chuyên mục: Giáo Dục Mầm Non | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 252 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Một số vấn đề về cảm thụ âm nhạc của trẻ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ạc còn gọi là sắc thái. Sắc thái thể 
hiện rõ tính chất âm nhạc mềm mại hay mạnh mẽ, gay gắt 
hay sâu lắng Trẻ có thể nhận biết âm thanh to, nhỏ khi 
phát ra điều này biểu hiện khá rõ nét ở các bản nhạc cổ 
điển, khi được nghe trẻ sẽ nhận biết một cách rõ ràng. 
Hầu hết trẻ đều có những cảm nhận về độ mạnh nhẹ 
của âm thanh, điều này thể hiện rõ trong cách hát của trẻ, 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 67-70; 96 
70 
lúc trẻ hát to nhưng có chỗ trẻ hát nhỏ tùy thuộc vào từng 
bài hát cụ thể. Thông thường, khi nghe nhạc, những âm 
thanh to, mạnh mẽ đều tạo nên sự tập trung đối với trẻ, 
chúng không những thích nghe những âm thanh to mà 
còn cố tình tạo ra những âm thanh ấy nhằm thỏa mãn ý 
thích của mình nhằm tạo chú ý và hưởng của người khác. 
2.2. Một số yếu tố phức tạp hơn mà trẻ có thể nhận biết 
2.2.1. Âm sắc 
Âm sắc là màu sắc của âm thanh. Màu sắc ở đây là 
sự trong, đục, khàn gay gắt, êm dịu, chói tai... của âm 
thanh. Mỗi nhạc cụ, mỗi vật phát âm đều có âm sắc khác 
nhau dù là có cùng một cao độ. Âm sắc thể hiện ngay 
trong giọng người phân biệt đơn giản là giọng nam - nữ. 
Giọng nữ lại chia thành các loại cơ bản cao, vừa 
(Soprano, Mezzo soprano, Anto); giọng nam cũng chia 
cơ bản thành cao, trung, trầm (terno, baritone, bass). 
Phức tạp hơn cả là màu sắc các nhạc cụ khi diễn tả 
bằng lời không thể diễn đạt hết được mà chỉ có thể thông 
qua việc nghe để phân biệt các loại nhạc cụ Ví dụ, tiếng 
kèn tiếng sáo, các loại đàn dây, các loại nhạc cụ gõ 
Trẻ từ 0-3 tuổi cũng đã có những cảm nhận về âm sắc 
ở mức độ đơn giản đó là trẻ có thể phân biệt được giọng 
nói của người thân trong gia đình: Ông, bà, cha, mẹ; 
hay trẻ có thể nhận biết tiếng kêu của các con vật: chim, 
chó, mèo, gà 
Trẻ từ 3-5 tuổi thì biểu hiện cao hơn, đó là sự phân 
biệt được giọng nam hay nữ, giọng cao hay thấp. 
Cả hai độ tuổi trên chưa có sự cảm nhận rõ nét về âm 
sắc của các nhạc cụ. 
Trẻ từ 5 tuổi trở lên thì ngoài sự phân biệt về giọng 
người và tiếng kêu của các loài vật, trẻ bước đầu có thể 
nhận biết được một số loại nhạc cụ quen thuộc và âm sắc 
của nhạc cụ ấy. Tuy nhiên điều này phần lớn phụ thuộc 
vào vốn hiểu biết cũng như việc tiếp xúc của trẻ về các 
loại nhạc cụ ấy. 
Qua các bài tập thử nghiệm trên trẻ, chúng tôi nhận 
thấy nhìn chung các em có thể nhận và phân biệt một số 
nhạc cụ khi được giới thiệu (điều này đôi khi cũng tùy 
thuộc vào trí nhớ của trẻ); mức độ khó dần với những trẻ 
lớn hơn, khi đã có nhiều “trải nghiệm” hơn. 
2.2.2. Hòa âm 
Hòa âm là sự kết hợp các âm thành chồng âm và có 
sự liên hệ nối tiếp nhau có quy luật của các chồng âm đó. 
Nói tóm lại, hòa âm là môn học nghiên cứu về sự cấu tạo 
và nối tiếp của các hợp âm theo một quy luật nhất định. 
Hòa âm “chắp cánh” cho giai điệu thêm bay bổng, tăng 
hiệu quả diễn đạt cho giai điệu. Nếu không có hòa âm 
giai điệu chỉ là một câu nhạc đơn giản, đơn lẻ mà khó có 
hấp dẫn được người nghe. Vì vậy, hòa âm là một yếu 
quan trọng không thể thiếu để cấu thành nên âm nhạc, 
giúp âm trẻ có thể nhớ một nét giai điệu, một câu nhạc 
hay một đoạn nhạc nào đó trong việc cảm thụ âm nhạc 
và sự phức tạp của hòa âm cũng là những tiêu chí để nhận 
biết trẻ có năng khiếu. 
Đối với trẻ trong giai đoạn đầu của cảm thụ âm nhạc 
thì hòa âm là một khái niệm rất xa vời, tuy nhiên trẻ vẫn 
có thể cảm nhận, phân biệt được sự pha trộn của các âm 
thanh là mềm mại, hòa hợp hay gay gắt căng thẳng 
Mặt biểu hiện dễ thấy nhất của hòa âm đó chính là 
phần đệm của một giai điệu hay bài hát nào đó. Trẻ nghe 
giai điệu đơn lẻ (1 bè) cũng đã có những cảm nhận và 
thích nhưng khi đưa phần đệm vào nét giai điệu ấy thì trẻ 
sẽ cảm thấy hứng thú hơn rất nhiều, đặc biệt là những 
giai điệu có phần đệm tươi vui hoạt bát. 
Âm hưởng vang lên trẻ có thể thấy được cái hay của 
âm nhạc dù chưa hiểu biết gì nhiều nhưng sẽ là nguồn 
kích thích sự hứng thú, đam mê khiến chúng muốn tiếp 
cận môn âm nhạc nhiều hơn. Biểu hiện đơn giản nhất khi 
cho trẻ nghe các hợp âm thông qua nhạc cụ đàn phím đó 
là làm chúng thấy hay, dễ chịu, hay các hợp âm sẽ khiến 
trẻ thấy chói tai nhưng sẽ vẫn thấy thích thú. 
Các yếu tố này là những yếu tố cơ bản nhất trong quá 
trình cảm nhận âm nhạc. Những nhận thức ở cấp độ cao 
hơn như về thang âm, điệu thức, giọng, hòa âm thông 
thường không có được ở trẻ nhỏ. Phần lớn trẻ em dưới 5 
tuổi khó có thể hát chuẩn xác trong một giọng ổn định 
hoặc phân biệt các giai điệu ở một giọng. Tuy nhiên, vẫn 
có một số ít trẻ đặc biệt có thể thực hiện khá tốt và thậm 
chí là rất nhạy cảm với các âm thanh. 
Người lớn mới có thể nghe được các chuyển biến về 
hòa âm trong một bản nhạc nên phải đến khoảng bảy tuổi 
trở lên, trẻ mới có khả năng này. Như vậy, để phát triển 
khả năng nhận thức những yếu tố này, trẻ cần một thời 
gian nghe và tiếp xúc nhiều với âm nhạc. Các vấn đề như 
điệu thức, giọng, hòa âm đều là những khái niệm khó 
hiểu nên việc cần được tiếp xúc nhiều thông qua học tập 
trẻ sẽ dần hiểu và cảm nhận tốt hơn về các hình thức biểu 
hiện của âm nhạc. 
3. Kết luận 
Ở Việt Nam, các lớp cảm thụ âm nhạc không còn là 
mới mẻ, nhưng các bậc phụ huynh vẫn chưa thực sự quan 
tâm, chú ý đến khả năng của con mình. Không đơn thuần 
là một lớp năng khiếu, một sân chơi lành mạnh cho trẻ 
mà nó còn giúp ích rất nhiều cho việc phát triển trí tuệ 
của các con. 
(Xem tiếp trang 96)
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 92-96 
96 
giai đoạn; được khuyến khích nêu lên các ý tưởng để cải 
thiện những mặt còn hạn chế của sản phẩm. SV nắm được 
quy tắc đánh giá trên cơ sở tôn trọng bạn, góp ý và nhận 
xét trên tinh thần xây dựng để thực hiện tốt hơn ở lần sau. 
NL đánh giá của SV được đánh giá bằng điểm số. 
- NL phát triển bản thân: Thông qua các dự án, SV thể 
hiện được khả năng sáng tạo của mình, tự cập nhật kiến 
thức về một số lĩnh vực môi trường, nghệ thuật, giáo dục 
môi trường và vận dụng các kiến thức đó vào nhiệm vụ 
xây dựng chương trình nghệ thuật vì môi trường, phân tích 
vấn đề môi trường. Nhờ đó, SV lĩnh hội được những kiến 
thức, kĩ năng nhất định trong việc tổ chức hoạt động giáo 
dục môi trường cho trẻ mầm non, biết trình bày một vấn 
đề về môi trường, có trách nhiệm với việc tuyên truyền, 
giáo dục môi trường cho thế hệ trẻ và cho cộng đồng. 
3. Kết luận 
Vận dụng DHDA trong dạy học học phần “Giáo dục 
bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non” có thể giải quyết 
hiệu quả vấn đề môi trường cho SV. Kết thúc dự án, SV 
có thể xây dựng một sản phẩm vật chất hoặc trí tuệ, đưa 
ra chủ đề mới hoặc hướng triển khai mới cho dự án đã có 
để tiếp tục thực hiện những dự án tiếp theo. Qua đó, SV 
có thể áp dụng phương pháp DHDA trong việc giáo dục 
trẻ mầm non bảo vệ môi trường và phát triển được một 
số NL cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp sau này. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Noémi Szállassy (2008). Project Method, As One of 
The Basic Methods of Environmental Education. 
Acta Didactica Napocensia, Vol.1, No.2, Babes-
Bolyai University, Cluj - Napoca, Romania. 
[2] Trịnh Văn Biều - Phan Đồng Châu Thủy - Trịnh Lê 
Hồng Phương (2011). Dạy học dự án - Từ lí luận 
đến thực tiễn. Tạp chí Khoa học, số 28, Trường Đại 
học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. 
[3] Hoàng Thị Phương (2014). Giáo trình giáo dục môi 
trường cho trẻ mầm non. NXB Đại học Sư phạm. 
[4] Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2014). Chương 
trình chi tiết giáo dục đại học (theo học chế tín chỉ), 
ngành đào tạo: Giáo viên mầm non - Hệ chính quy 
(Tài liệu lưu hành nội bộ). 
[5] Michael Knoll (2014). Project Method. In: 
Encyclopedia of Educational Theory and 
Philosophy, ED: D. C. Phillips, Thousend Oaks, 
CA: Sage (2014), pp 665-669. 
[6] Đỗ Hương Trà (chủ biên, 2015). Dạy học tích hợp 
phát triển năng lực học sinh (Quyển 1 -Khoa học tự 
nhiên). NXB Đại học Sư phạm. 
[7] Đinh Văn Vang (2009). Giáo trình tổ chức hoạt động 
vui chơi cho trẻ mầm non. NXB Giáo dục Việt Nam. 
 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CẢM THỤ 
(Tiếp theo trang 70) 
Nên chăng chúng ta cần có cách nhìn khác để các bé 
được thỏa sức sáng tạo và phát triển trí tưởng tượng 
phong phú của mình đối với nghệ thuật nhất là âm nhạc. 
Thành công của việc cho trẻ cảm thụ âm nhạc là giúp trẻ 
có một tình yêu đối với âm nhạc, thẩm mĩ âm nhạc. Cảm 
thụ âm nhạc là bước khởi đầu hiệu quả trong việc tạo ra 
những điều kiện tốt nhất để trẻ có thể tiếp xúc, lĩnh hội 
những tri thức, tinh hoa văn hóa của thế giới. 
Trẻ thơ rất nhạy cảm với âm nhạc, ngay ở lứa tuổi 
mẫu giáo, trẻ đã biết cảm thụ và thích thú với những 
hoạt động mang tính nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc. 
bởi đó là một thế giới kì diệu đầy cảm xúc. Thông qua 
các hoạt động âm nhạc, trẻ phát triển nhạc cảm, mở 
rộng nhận thức về thế giới xung quanh, phát triển các 
kĩ năng vận động, phát triển kĩ năng nghe và cải thiện 
kĩ năng giao tiếp 
Âm nhạc không chỉ giúp trẻ phát triển trí thông 
minh, khích lệ tư duy sáng tạo, tăng khả năng cảm nhận 
tinh tế những nét đẹp trong cuộc sống mà còn giúp trẻ 
bộc lộ cảm xúc của mình với thế giới xung quanh. Âm 
nhạc có sức ảnh hưởng lớn đến đời sống con người nói 
chung trẻ nhỏ nói riêng, vì vậy các bậc phụ huynh, 
những người làm công tác giáo dục âm nhạc cần phải 
quan tâm nhiều hơn nữa để trẻ được phát triển một cách 
toàn diện hơn. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Ngô Thị Nam - Phạm Thị Hòa (2008). Giáo dục âm 
nhạc (tập 1,2). NXB Giáo dục 
[2] Hoàng Hoa (2008). Giáo trình Hòa âm ứng dụng. 
NXB Đại học Sư phạm 
[3] Phạm Tú Hương (2004). Lí thuyết âm nhạc cơ bản. 
NXB Đại học Sư phạm. 
[4] Hoàng Phê (chủ biên, 1994). Từ điển tiếng Việt. NXB 
Khoa học xã hội - Trung tâm Từ điển học Hà Nội. 
[5] Nhiều tác giả (1993). Phát hiện, đào tạo bồi dưỡng 
năng khiếu, tài năng văn hóa nghệ thuật. NXB Văn 
hóa - Thông tin. 
[6] Hồng Đăng (1972). Các nhạc khí trong dàn nhạc 
giao hưởng. NXB Văn hóa. 
[7] Nguyễn Thị Ánh Tuyết (chủ biên, 2013). Giáo trình 
Tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm non. NXB Đại học 
Sư phạm.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_ve_cam_thu_am_nhac_cua_tre.pdf