Một số vấn đề lí luận về quản lí hoạt động giảng dạy môn Mĩ thuật ở trường Trung học cơ sở
Abstract: Junior high school art is a particular art subject taught in the school. Thus, the teaching
of this subject also has many specific factors compared to other subjects. Good management of
arts teaching in junior high schools will contribute to the implementation of comprehensive student
education. The paper analyzes the teaching activity of art teachers of junior high school teachers,
thus, analyzing the management of teaching activities in this subject
sử dụng thiết bị, đồ dùng giảng dạy của giáo viên. Nếu sử dụng hợp lí, phù hợp với không gian, thời gian và nội dung của mỗi bài giảng thì sẽ kích thích được lòng say mê, tính chủ động tích cực của người học. Nếu sử dụng tùy tiện, thiếu sự chuẩn bị chu đáo sẽ không phát huy được tác dụng của đồ dùng giảng dạy, mà có khi làm mất thời gian của giáo viên và học sinh, làm hạn chế hiệu quả giảng dạy. CBQL cần có những chỉ đạo hướng dẫn giáo viên môn Mĩ thuật sử dụng thiết bị và đồ dùng giảng dạy, đẩy mạnh phong trào tự làm đồ dùng giảng dạy. Một số thiết bị và đồ dùng giảng dạy môn Mĩ thuật mà nhà trường cần chú ý trang bị cho giáo viên là: Mẫu vẽ như lọ, chai, ấm, chén, khối, tượng Nếu trường không có điều kiện chuẩn bị mẫu như nội dung sách giáo khoa, giáo viên có thể thay thế bằng mẫu tương tự; tranh, ảnh phiên bản các tác phẩm (tranh, tượng, đồ mĩ nghệ, các công trình kiến trúc, phong cảnh,...) dùng minh họa cho vẽ theo mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh và thường thức mĩ thuật; máy chiếu; hình gợi ý cách vẽ (vẽ mảng, vẽ màu dùng cho vẽ theo mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh); giấy vẽ khổ lớn, màu, bút vẽ; các hình khối cơ bản (hình lập phương, hình hộp, hình trụ, hình lăng trụ,...) có thể làm bằng các chất liệu khác nhau (thạch cao, gỗ, giấy carton, gỗ dán,...), có kích cỡ khác nhau, thường là màu trắng, để học sinh dễ nhìn; các đồ vật có dạng cấu trúc là các hình khối cơ bản (cái cốc, chai, lọ (bình), phích nước (bình thủy), bình đựng nước, ấm, chén (tách), đĩa, bát và các đồ mĩ nghệ (mây, tre,...), tượng, phù điêu (thạch cao, đất nung)... dùng cho vẽ theo mẫu; các sản phẩm mĩ nghệ (đĩa, khăn, vải trang trí, hàng thêu dệt có hoa văn, họa tiết trang trí, quat, bìa lịch, bìa sách,...) dùng minh họa cho các bài trang trí; bảng hình minh họa cho nội dung, đồng thời tạo niềm tin cho các em... 2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lí hoạt động giảng dạy môn Mĩ thuật ở trường trung học cơ sở 2.4.1. Nhóm các yếu tố thuộc về cán bộ quản lí nhà trường - Nhận thức của CBQL về vị trí, tầm quan trọng của môn Mĩ thuật ở trường THCS Mĩ thuật là môn học chính thức trong chương trình và kế hoạch giảng dạy ở THCS. Nó độc lập và bình đẳng với các môn học khác. Môn Mĩ thuật chiếm vị trí khá quan trọng trong hoạt động giảng dạy ở trường THCS. Đây là môn học có nhiệm vụ giáo dục cho HS thị hiếu thẩm mĩ - một trong những yếu tố cần thiết giúp các em hình thành và phát triển một nhân cách toàn diện để trở thành nhửng con người của thời đại mới; thông qua đó, năng lực quan sát, khả năng tư duy hình tượng, tính sáng tạo của các em được phát triển. Các em biết cảm nhận cái đẹp, và hơn thế nữa là tạo ra cái đẹp không chỉ cho bản thân mà còn cho mọi người xung quanh [6; tr 10]. Nếu CBQL nhà trường nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của môn Mĩ thuật như trên và không xem đây là “môn học phụ”, thì họ sẽ đầu tư cho công tác quản lí hoạt động giảng dạy môn học này có chiều sâu, không qua loa, hình thức. - Năng lực quản lí chuyên môn nói chung và năng lực quản lí môn Mĩ thuật nói riêng của CBQL nhà trường Trình độ, năng lực quản lí của người CBQL nhà trường có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động giảng dạy của giáo viên nói chung, của môn Mĩ thuật nói riêng. Môn Mĩ thuật là môn học nghệ thuật đặc thù; tuy nhiên, có thể nói hiện nay, nhiều CBQL chưa nắm bắt được đặc thù cũng như chuyên môn của bộ môn Mĩ thuật nên cách nhìn nhận và quản lí vẫn chưa có sự khác biệt đối với các môn học khác. Điều đó khiến bộ môn Mĩ thuật chưa thật sự phát huy được hết thế mạnh vốn có của mình và được đánh giá thấp hơn các môn học cơ bản. 2.4.2. Nhóm các yếu tố thuộc về giáo viên môn Mĩ thuật - Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của môn Mĩ thuật ở trường THCS Hiện nay, dù đã có nhiều thay đổi về nhận thức, nhưng nhìn chung bộ môn Mĩ thuật tại các trường vẫn chỉ được xem là môn phụ, thậm chí ngay cả đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy cũng có suy nghĩ tương tự. Điều này ảnh hưởng đến việc quản lí chất lượng và hiệu quả của môn học này. - Năng lực chuyên môn của giáo viên môn Mĩ thuật Hiện nay, đội ngũ giáo viên mĩ thuật ở các trường THCS hầu hết được đào tạo cơ bản về chuyên môn từ các trường chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ khá vững vàng, nhiệt tình và tâm huyết với nghề, đáp ứng được yêu cầu giảng dạy bộ môn Mĩ thuật. Tuy nhiên, một số giáo viên có hiện tượng đối phó với thi cử, chạy theo thành tích, thường giúp học sinh thực hiện các bài tập trong môn Mĩ thuật, hệ thống câu hỏi của giáo viên chỉ yêu cầu học sinh nhắc lại những kiến thức có trong sách giáo khoa một các đơn điệu, máy móc Một số giáo viên môn Mĩ thuật không muốn thay đổi, cải tiến phương pháp dạy học, ngại đầu tư thời gian nghiên cứu, đào sâu về lĩnh vực chuyên môn và kĩ năng sư phạm. Điều này có thể ảnh hưởng đến việc quản lí chất lượng giảng dạy môn học này. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 16-20 20 2.4.3. Nhóm các yếu tố thuộc về học sinh - Nhận thức của học sinh về môn Mĩ thuật Trong quá trình học môn Mĩ thuật, học sinh thường có câu hỏi: Học Mĩ thuật để làm gì, giúp ích gì cho mình? Học sinh chưa thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa của bộ môn này trong nhà trường và xã hội. Nhiều học sinh cho rằng đây là “môn học phụ”, không cần thiết, nên nhờ bạn bè, người nhà vẽ hộ hay thậm chí làm qua loa Điều này ảnh hưởng đến việc học tập của chính học sinh và việc giảng dạy của giáo viên. - Hứng thú và sở thích của học sinh với môn Mĩ thuật Một số học sinh chưa thật sự yêu thích bộ môn, chưa có phương pháp học đúng đắn, chưa chú ý đến bài giảng trên lớp dẫn đến không hiểu bài. Học sinh học và làm bài là để đối phó với việc thi cử, kiểm tra, thiếu sự hứng thú và chủ động trong học tập. Bên cạnh đó, một số HS có thể yêu thích vẽ và sáng tạo mĩ thuật nhưng lại gặp sự tác động nhận thức từ phía phụ huynh và xã hội nên đã khiến cho các em thực hiện các bài sáng tạo của mình dưới hình thức đối phó. 2.4.4. Nhóm các yếu tố thuộc về cha mẹ học sinh - Nhận thức của cha mẹ học sinh về vị trí của môn Mĩ thuật Đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến việc giảng dạy môn Mĩ thuật. Nếu phụ huynh vẫn xem đây là một “môn phụ”, mất nhiều thời gian của học sinh, thì không muốn hoặc không có những đầu tư cần thiết để con em phát triển năng khiếu mĩ thuật của mình. Ngược lại, khi phụ huynh hiểu được vai trò của môn học giúp con em mình phát triển nhân cách toàn diện, phát triển tư duy sáng tạo, thì sẽ có sự quan tâm, đầu tư khuyến khích để HS yêu thích môn học này. - Hoàn cảnh gia đình Đây cũng có thể là yếu tố ảnh hưởng đến việc học sinh học tập môn Mĩ thuật. Nếu hoàn cảnh kinh tế gia đình khá giả, truyền thống gia đình, nghề nghiệp của cha mẹ học sinh,... liên quan đến các ngành nghệ thuật, thì có thể ảnh hưởng thuận lợi đến hứng thú, sở thích và khả năng của học sinh trong môn Mĩ thuật. 2.4.5. Nhóm các yếu tố thuộc về chỉ đạo của cấp trên và điều kiện giảng dạy môn Mĩ thuật của nhà trường - Văn bản chỉ đạo của Bộ, Sở, Phòng GD-ĐT về giảng dạy môn Mĩ thuật trong trường THCS: Hoạt dộng giảng dạy ở trường THCS nói chung và môn Mĩ thuật nói riêng thực hiện theo chỉ đạo của các cấp quản lí, về toàn diện các mặt, thể hiện rõ nhất là chỉ đạo thực hiện đúng Chương trình giảng dạy bộ môn Mĩ thuật do Bộ GD-ĐT quy định. - Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài chính của nhà trường: Hoạt động giảng dạy môn Mĩ thuật đòi hỏi một số yêu cầu đặc thù về phòng học, phương tiện, thiết bị,... Vì thế, điều kiện cơ sở vật chất và nguồn tài chính hiện có của nhà trường là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động giảng dạy môn học này. 3. Kết luận Ở trường THCS, Mĩ thuật là môn học quan trọng nhằm bồi dưỡng và phát triển thẩm mĩ và khả năng nghệ thuật của học sinh. Cũng như các môn học khác, hoạt động giảng dạy môn Mĩ thuật cần được hiệu trưởng quản lí một cách chặt chẽ thông qua phó hiệu trưởng, tổ, nhóm chuyên môn. Việc quản lí này cần thực hiện toàn diện, từ khâu chuẩn bị giảng dạy của giáo viên, đến khâu giảng dạy trên lớp và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Trong quá trình quản lí hoạt động giảng dạy này, cần chú ý đến các yếu tố thuộc về CBQL nhà trường, giáo viên môn Mĩ thuật, học sinh, cha mẹ học sinh và điều kiện hiện có của nhà trường, sự chỉ đạo của cấp trên để có những biện pháp quản lí thích hợp. Tài liệu tham khảo [1] Bộ GD-ĐT (2018). Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông môn Mĩ thuật. [2] Phạm Viết Vượng (2014). Giáo dục học. NXB Đại học Sư phạm. [3] Trần Kiểm (2004). Khoa học Quản lí giáo dục - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn. NXB Giáo dục. [4] Bộ GD-ĐT (2014). Công văn số 5555/BGDĐT- GDTrH về việc Hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp giảng dạy và kiểm tra, đánh giá; tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên môn của trường trung học/trung tâm giáo dục thường xuyên. [5] Nguyễn Quốc Toản - Hoàng Kim Tiến (2010). Giáo trình phương pháp dạy - học Mĩ thuật. NXB Đại học Sư phạm. [6] Nguyễn Thu Tuấn (2010). Giáo trình phương pháp giảng dạy Mĩ thuật (Tập 1). NXB Đại học Sư phạm. [7] Nguyễn Thị Bảo Hoa (2016). Giảng dạy Mĩ thuật ở phổ thông theo hướng phát triển năng lực từ kinh nghiệm thế giới. Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số 67 (128), tr 47-50, 74. [8] Nguyễn Thu Tuấn (2013). Giảng dạy mĩ thuật ở trường phổ thông theo hướng phát triển khả năng sáng tạo của học sinh. Tạp chí Giáo dục, số 311, tr 53-54. [9] Nguyễn Quốc Toản (chủ biên) - Hoàng Kim Tiến (2007). Giáo trình phương pháp dạy - học mĩ thuật: Sách dành cho Cao đẳng Sư phạm. NXB Đại học Sư phạm. [10] Bộ GD-ĐT (2011). Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thồng có nhiều cấp học (ban hành kèm theo Thông tư số 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3/2011 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT).
File đính kèm:
- mot_so_van_de_li_luan_ve_quan_li_hoat_dong_giang_day_mon_mi.pdf