Một số giải pháp nâng cao nhận thức áp dụng kế toán đối với khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam hiện nay
Khu vực kinh tế phi chính thức (KTPCT) từ lâu vẫn thường bị bỏ ngỏ bởi sự phát triển nhỏ lẻ và là khu vực kinh tế vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát và sự hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, không vì vậy mà nó mất đi sự phát triển, cũng như gia tăng về số lượng trong thời gian qua. Hầu hết các đối tượng trong khu vực KTPCT thường không thực hiện công tác kế toán theo quy phạm chung. Trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu và rộng như hiện nay thì việc quản lý kinh tế càng được quan tâm nhiều hơn, cũng từ đó vai trò của kế toán đối với khu vực này cũng càng được chú trọng và cần được định hướng phát triển. Vì vậy, cần có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao nhận thức cho việc áp dụng kế toán đối với khu vực KTPCT ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
khoán như thế sẽ không có lợi cho các hộ kinh doanh. Trong đó, quy định mới về cách tính “thuế khoán” đã tác động đến tâm lý của hơn 3 triệu hộ kinh doanh trên cả nước. Việc “đánh” thuế trực tiếp trên doanh thu khiến nhiều hộ kinh doanh cá thể sẽ phải nộp thuế nhiều hơn vì không được trừ chi phí đầu vào, không được giảm trừ gia cảnh như trước... Theo Tổng cục Thuế, mặc dù thuế môn bài thu từ cơ sở sản xuất kinh doanh hộ cá thể chiếm 72% tổng thuế môn bài nhưng thuế GTGT thu được chỉ chiếm 9,8% tổng thu thuế GTGT và thuế thu nhập DN chỉ chiếm 14,7%. Tương tự, thuế tiêu thụ đặc biệt là 0,3% và thuế tài nguyên là 5%. Thực tế khảo sát cho thấy mặc dù nhiều cở sản xuất kinh doanh cá thể có quy mô khá lớn, thậm chí lớn hơn cả các doanh nghiệp thuộc loại nhỏ song vẫn tồn tại ở dạng cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể (thuộc khu vực kinh tế phi chính thức) mà không chuyển đổi sang các loại hình Doanh nghiệp (khu vực kinh tế chính thức). Việc duy trì mô hình cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể không những làm mất đi cơ hội phát triển, giá trị gia tăng của chính các cơ sở này mà còn tạo thêm khó khăn trong việc quản lý đối với ngành thuế. Ngoài ra, Chế độ kế toán áp dụng cho hộ kinh doanh được ban hành năm 2000, trước khi Luật Kế toán có hiệu lực (01/01/2004), điều này bộc lộ nhiều điểm bất cập. Chế độ kế toán hộ kinh doanh không nêu khái niệm về doanh thu, chi phí nên nội dung và phạm vi doanh thu, chi phí không được xác định rõ ràng; Chế độ kế toán hộ kinh doanh không đề cập đến thời điểm ghi nhận doanh thu, chi phí và cách xác định chi phí trong trường hợp sử dụng cho hoạt động kinh doanh lẫn với tiêu dùng của hộ gia đình nên thu nhập để tính chi phí trong kỳ không phản ánh đúng nghĩa vụ thuế hộ kinh doanh phải nộp; Vấn đề về chiết khấu thương mại, giảm giá, khuyến mại chưa được đặt ra để giải quyết. Quy định hộ kinh doanh vẫn sử dụng chứng từ bắt buộc và chứng từ hướng dẫn, dẫn đến sự không thống nhất giữa các chủ thể tham gia vào thị trường trong sử dụng hóa đơn chứng từ. Đối với phương pháp tính thuế GTGT, theo Thông tư 92/2015/TT-BTC, số thuế GTGT phải nộp được xác định bằng tỷ lệ % để tính thuế GTGT trên doanh thu và được quy định theo từng lĩnh vực hoạt động. Tuy nhiên, việc áp dụng tính thuế như trên đã tạo ra nhiều bất cập. Quy định không tính đến quy mô hoạt động, doanh thu tạo ra trong kỳ tính thuế nhiều hay ít, dẫn đến thực trạng có hộ kinh doanh hoạt động với mức doanh thu lớn nhưng vẫn áp dụng thuế khoán vì không có số liệu ghi chép trên sổ kế toán. Trong bối cảnh đất nước hội nhập phát triển, gia nhập TPP và aEC đều hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, thúc đẩy thương mại, thu hút đầu tư dựa trên lợi thế của một thị trường mở, thống nhất và thực sự là một thời cơ lớn. Bên cạnh đó cũng có những khó khăn, thách thức không nhỏ. Khu vực KTPCT cũng không nằm ngoài quy luật chung này. Nền kinh tế cạnh tranh gắt gao hơn và đòi hỏi sự chuyên nghiệp hơn, các hình TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 53Số 116 - tháng 6/2017 thức kinh doanh thuộc khu vực KTPCT phải thực sự nỗ lực, nâng cao chất lượng sản phẩm, cũng như đòi hỏi áp dụng triệt để các chính sách hỗ trợ thêm của Chính phủ để thực sự mang lại thêm nhiều lợi ích cho nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, việc không kê khai đầy đủ và áp dụng đúng quy trình sổ sách kế toán, lập hóa đơn, chứng từ, xác định đúng doanh thu bán hàng trên cơ sở áp dụng Chế độ kế toán là một rào cản lớn cho sự phát triển lâu dài. Do đó, cần hơn hết là phải có các giải pháp để nâng cao nhận thức áp dụng kế toán cho khu vực kinh tế này thích ứng hơn với xu thế hội nhập, mở rộng hoạt động sản xuất, thực hiện công tác kế toán và có thể nộp thuế như các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế chính thức. Một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức áp dụng kế toán trong khu vực kTPCT Thứ nhất, Bộ Tài chính cần sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Chế độ kế toán hộ kinh doanh cho phù hợp với thực tiễn phát triển, phù hợp với quy định quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, tránh thất thu thuế, đồng thời dễ dàng hơn cho các nhóm đối tượng thuộc khu vực KTPCT thực hiện. Quyết định 169/2000/QĐ-BTC và sửa đổi, bổ sung theo quyết định 131/2002/QĐ-BTC đã quá cũ và không còn phù hợp với giai đoạn phát triển này, cần phải bổ sung thay đổi và hoàn thiện theo định hướng như: Cần đưa ra khái niệm doanh thu, chi phí phù hợp với quy định của Luật Kế toán hiện nay. Xác định rõ nội dung, phạm vi xác định doanh thu, chi phí để thống nhất quản lý thông tin với các đối tượng khác. Đồng thời, cần quy định cụ thể điều kiện ghi nhận doanh thu, chi phí để thống nhất quản lý doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh trong kỳ tính thuế, trên cơ sở đó xác định đúng đắn nghĩa vụ thuế mà hộ kinh doanh phải nộp. Cần đưa ra các quy định cụ thể về các vấn đề chiết khấu thương mại, giảm giá, khuyến mại Cần bỏ các quy định về chứng từ bắt buộc và chứng từ hướng dẫn, để đảm bảo tính thống nhất trong quy định về sử dụng hóa đơn, chứng từ đối với tất cả các thành phần kinh tế. Cần hoàn thiện các quy định về sổ kế toán để tạo thuận lợi cho các hộ kinh doanh trong ghi chép sổ sách, quản lý và kiểm soát được hoạt động và là căn cứ để cơ quan thuế xác định phương pháp tính thuế, mức thuế phải nộp: Nhóm hộ kinh doanh có doanh thu dưới 100 triệu đồng, không yêu cầu mở sổ kế toán bắt buộc và áp dụng theo phương pháp tính thuế khoán như hiện nay; Nhóm hộ kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng đến 500 triệu đồng, yêu cầu mở sổ theo dõi doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh và sổ tồn kho vật liệu, hàng hóa; cách xác định thuế GTGT phải nộp dựa vào thông tin về doanh thu, chi phí và thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế; Nhóm hộ kinh doanh có doanh thu trên 500 triệu đồng, yêu cầu mở sổ theo dõi doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh và sổ tồn kho vật liệu, hàng hóa, sổ theo dõi tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, sổ theo dõi tài khoản thuế và các khoản phải thu, phải trả. Cách xác định thuế GTGT phải nộp dựa vào thông tin về doanh thu, chi phí và thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế. TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN54 Số 116 - tháng 6/2017 Cần hoàn thiện cách tính thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT để đảm bảo phát huy được tính ưu việt của thuế GTGT. Không nên áp dụng tính thuế GTGT phải nộp theo tỷ lệ % trên doanh thu nhằm tránh tình trạng thu thuế trùng thuế, phù hợp với bản chất của phương pháp tính là trực tiếp trên GTGT. Thứ hai, tăng cường sự hiện diện và vai trò của kế toán trong khu vực KTPCT bằng một số cách như: Tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn về kế toán, về thuế cho các đối tượng kinh doanh tương đối lớn thuộc khu vực KTPCT với mức học phí thấp hoặc miễn phí để khuyến khích các hộ tổ chức kinh doanh có mức thu nhập ổn định (từ 100 triệu đồng/năm trở lên) biết cách quản lý và theo dõi doanh thu, chi phí, biết cách lập chứng từ, tiếp nhận chứng từ và có kê khai thuế rõ ràng. Bổ sung các quy định mang tính hướng dẫn thực hiện công tác kế toán cho các hộ kinh doanh theo hướng đơn giản, dễ thực hiện. Tiếp cận với từng cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể để tìm hiểu rõ hơn về phương thức kinh doanh, thu nhập hằng năm và hướng dẫn, bồi dưỡng trực tiếp nghiệp vụ kế toán, thuế... Thứ ba, đối với các cơ sở kinh doanh có số lao động thường xuyên trên 10 người, doanh thu ổn định (khoảng trung bình 100 triệu đồng/năm trở lên) nên được định hướng chuyển từ khu vực kinh tế phi chính thức sang khu vực kinh tế chính thức để áp dụng đầy đủ, chính xác các chính sách kế toán, thuế. Điều này là cần thiết, khi chuyển sang khu vực kinh tế chính thức sẽ được hưởng sự quan tâm, ưu đãi nhiều hơn của Nhà nước, chính sách quản lý rõ ràng hơn. Ngoài ra sẽ góp phần nâng đáng kể tính minh bạch trong mọi hoạt động Nhà nước, hạn chế đến mức thấp nhất các hoạt động không chính thức của các doanh nghiệp như hiện nay. Cuối cùng, thành công của tiến trình hội nhập và phát triển phụ thuộc vào việc tiến trình này có thể đem đến lợi ích cho doanh nghiệp, cho người lao động, gia đình của họ và cho toàn xã hội hay không. Khu vực kinh tế phi chính thức cần hơn hết sự hỗ trợ chính sách từ các Bộ, Ngành để thúc đẩy môi trường thuận lợi, tạo thêm việc làm tốt, bao gồm: các biện pháp phát triển theo làng nghề, các chính sách tiêu thụ sản phẩm, các giải pháp hỗ trợ về đào tạo, tín dụng, chính sách thuế với mục đích hỗ trợ tăng trưởng, hợp pháp hóa các ngành nghề kinh doanh theo hướng có lợi để phát triển cùng với xu thế hội nhập chung của đất nước. Ngoài ra Nhà nước cần quan tâm hơn đến các chính sách an sinh xã hội, như việc áp dụng sâu và rộng chính sách Bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với khu vực kinh tế này nhằm đảm bảo sự bình đẳng cho mọi thành phần lao động. Chính từ những sự hỗ trợ quan tâm này sẽ thúc đẩy sự phát triển, tăng doanh thu cho khu vực KTPCT, tiệm cận với mức doanh thu ổn định. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ThS. Nguyễn Thị Thu Hà, Vai trò của kế toán trong khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam, Tạp chí Tài chính kỳ 1 số tháng 4/2016. 2. ThS. Phạm Thị Thanh, Chế độ kế toán và thuế đối với hộ kinh doanh - Những vấn đề cần trao đổi, Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 6/2016. 3. Viện Khoa học Thống kê, Tổng quan về kết quả điều tra thống kê khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam và một số khuyến nghị về quản lý thông tin thị trường lao động và phát triển nguồn nhân lực, 2010. 4. Quyết định 169/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2009 của Bộ Tài chính; 5. Quyết định 131/2002/QĐ-BTC ngày 18/10/2002 của Bộ Tài chính; 6. Thông tư 92/2015/TT-BTC ngày 15/6/2015; Thông tư 156/2013/TT-BTC ngày 6/11/2013; Thông tư 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013. 7. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2014.
File đính kèm:
- mot_so_giai_phap_nang_cao_nhan_thuc_ap_dung_ke_toan_doi_voi.pdf