Mấy đặc sắc thi pháp lời văn nghệ thuật trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng
Tóm tắt
Bài viết nghiên cứu việc tổ chức lời văn nghệ thuật trong các sáng tác của Vũ Trọng Phụng, từ góc độ
phong cách học cá nhân và đặc trưng của thể loại tiểu thuyết. Hiện thực - trào phúng là nguyên tắc chủ
đạo của việc tổ chức lời văn trong các sáng tác của Vũ Trọng Phụng, đặc biệt là trong các tiểu thuyết và
truyện ngắn của ông. Nguyên tắc này được thể hiện trên nhiều cấp độ, từ cấp độ nhãn quan ngôn từ tiểu
thuyết, đến cấp độ ngôn ngữ và cấp độ hình thức nghệ thuật của lời văn. Đóng góp của Vũ Trọng Phụng
cho nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX là rất to lớn, thể hiện năng lực tìm
tòi và sáng tạo có tính chất đột phá của một tài năng viết truyện xuất sắc.
iếp là lời trần thuật mô tả lại suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật nhằm bộc lộ nội tâm. Hình thức lời này trong rất nhiều trường hợp rất khó phân định với lời độc thoại nội tâm, tạo ra một sự mơ hồ trong lời kể. Chúng tôi khảo sát lời văn này vì hai lí do. Thứ nhất, nó xuất hiện khá nhiều trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, tạo nên những nét ổn định trong thi pháp lời văn NGUYỄN MẠNH QUỲNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 31 nghệ thuật của ông. Thứ hai, giá trị của lời này là rút ngắn khoảng cách giữa người kể chuyện và nhân vật, tạo một sự thân mật, suồng sã, gần gũi vốn là một đặc trưng của tư duy tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Lời nửa trực tiếp trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng có chức năng tái hiện ý thức của nhân vật đồng thời với việc mô tả nhân vật cùng với những phân tích, bình luận của tác giả. Bên cạnh đó, nó còn thực hiện chức năng miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật trong sự đối thoại với các ý thức khác, kể cả tác giả. Nét độc đáo của nó là được tổ chức lại dưới cái nhìn "vô nghĩa lí" và bởi nguyên tắc trào phúng. Có nghĩa là nhà văn vừa tái hiện thế giới nội tâm của nhân vật vừa chen vào đó chất giọng hài hước, châm biếm của mình với mục đích cợt nhạo, chỉ trích, hoặc tố cáo, phản kháng. Lời nửa trực tiếp trước hết nhằm tái hiện ý thức nhân vật đồng thời với miêu tả, bình luận về nhân vật của người kể chuyện. Ở dạng loại lời này, nhà văn vừa miêu tả nhân vật vừa tái hiện ý thức của nó đối với bản thân bằng ngôn ngữ giao hoà giữa lời nhân vật và lời của người kể chuyện. Xin trích một đoạn văn tái hiện ý thức của bà phó Đoan trong Số đỏ về việc cậu Phước trở chứng: “(...) Ông thầy số đã kêu số cậu Phước thọ lắm, hay là thầy số đoán nhảm? Ấy đó là những câu hỏi làm rối loạn cả khối óc bà mẹ, khiến bà đau khổ khó nghĩ. Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ. Nhất là lại có nuôi con cầu tự nữa mới biết lòng cha mẹ. Như bà phó Đoan nuôi con kể đã là cùng. Bà đã kiêng khem đủ thứ, và tránh những tiếng “quở quang” rất kĩ lưỡng cho cậu Phước, nào bán khoán, nào đội bát nhang, nào cúng, nào sớ tấu: thôi thì chẳng thiếu thứ gì nữa. Vậy mà bây giờ thốt nhiên cậu lại “thế” thì là bởi đâu? Hay đi cầu cứu sư cụ Tăng Phú chăng? Hay là mời ông đốc Trực Ngôn? Bà lo lắng nhìn cậu Phước ngồi tần ngần trên một cái bàn ở giữa nhà, rồi bà ra cửa sổ...” Những kết cấu “Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ. Nhất là lại có nuôi con cầu tự nữa mới biết lòng cha mẹ", "thốt nhiên cậu lại "thế" thì là bởi đâu?” là tái hiện ý thức, ngữ điệu của bà phó Đoan trong lời của người kể chuyện giấu mình. Người kể ẩn mình đi trong những kết cấu ấy, trao quyền chủ thể lời nói cho nhân vật rồi lại giành quyền “đồng sở hữu” trong những kết cấu: “như bà phó Đoan nuôi con kể đã là cùng. Bà đã kiêng khem đủ thứ... Bà lo lắng nhìn...” để miêu tả nhân vật. Người đọc rất khó có thể quy lời nói ấy về cho đích xác cho một ai, chỉ biết rằng, trong một lời có âm vang hai giọng: giọng bà phó băn khoăn, lo lắng, pha chút khoe mẽ và giọng người kể chuyện tinh nghịch, cợt nhạo, ngầm phơi bày tính hay ngụy biện, giả tạo, dối trá ở con người này. Một kiểu lời trực tiếp nữa là miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật trong sự đối thoại với các ý thức khác. M.Bakhtin gọi đây là những vi đối thoại hay lời tranh luận ngầm. Dạng tiêu biểu là những đoạn độc thoại nội tâm mà “Chất đối thoại thẩm thấu vào từng từ ngữ, gây ra bên trong nó một sự giằng co, ngắt lời nhau giữa các tiếng nói” (Bakhtin, 1992, tr. 290). Theo chúng tôi, Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan chưa có ý thức sử dụng loại lời này như là một thủ pháp nghệ thuật. Người đi đầu có lẽ là Vũ Trọng Phụng, và sau đó, Nam Cao là người sử dụng kiểu lời này rất thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng con người tâm lí. Những vi đối thoại - xin được gọi kiểu lời này như thế - thường được sử dụng để miêu tả quá trình khủng hoảng, bi đát, vật vã của con người trước một tình huống tâm lí SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019) 32 căng thẳng. Bakhtin đã phân tích rất hay những cơn khủng hoảng tâm lí của nhân vật Dotxtoievxki thông qua những vi đối thoại; chẳng hạn đoạn độc thoại nội tâm của Raxkolnikov trong phần đầu tiểu thuyết Tội ác và trừng phạt: bao gồm cả mỉa mai, cay đắng, phẫn nộ, đau buồn, yêu thương, căm giận.v.v. Trong các tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, có thể nhận thấy ông cũng thường sử dụng vi đối thoại - mặc dù còn ở mức độ - để khắc hoạ những giây phút nhân vật bị kích thích cao độ. Chẳng hạn, bản độc thoại nội tâm của bà đồ Uẩn trong Giông tố khi đang từ địa vị “nào là điêu đứng không còn kiếm nổi hột gạo mà ăn, nào là sự mỉa mai chèn chế của người làng, nào là sự thờ ơ lãnh đạm của họ mạc, nào là những trận cãi nhau, chửi nhau om sòm...” bỗng nhiên thành nhạc phụ của một nhà tư bản giàu có: “Bà sung sướng vì tưởng Mịch đã bị hại một đời, mà hoá ra sung sướng một đời. Cái con người quyền thế và giàu có nhất tỉnh, mà ai cũng phải sợ, mà ai cũng không kiện nổi, nay mai sẽ đem vài chục cái xe tu bin về dạm hỏi con bà hẳn hoi. Rồi thì cả làng sẽ ngậm miệng như hến. Rồi thì sẽ vô phúc cho những đứa nào đã bảo bà là vô phúc, đến nỗi con gái bà bị hiếp dâm. Rồi thì khổ cho những đứa chê bai, khinh bỉ, cho những đứa đã làm nhục bà. Tuy bà không biết biên sổ nhưng bà cũng biên sổ ngay vào bụng: nào là con mẹ đám Nhen nói kháy bà ra sao, nào là con mẹ đĩ Tốp nói xấu bà ra sao, vân vân... Con gái bà lấy chồng giàu! Những đứa ấy rồi thì nhục với bà, rồi thì điêu đứng với bà.” Ở đoạn văn trên, ý thức của bà đồ đã đối thoại, giằng co, tranh luận với ý thức của một số nhân vật được nêu tên. (“Chẹp! Chẹp!!!... Rõ chém cha cái đời! Cho thế mới mát ruột con mẹ đồ Uẩn. Không thế thì không được hợm hĩnh những là giấy rách giữ lấy lề, những là dòng dõi thế gia!” - lời trực tiếp của một trong số các nhân vật nói kháy, nói mát bà đồ). Trong Trúng số độc đắc, việc Phúc trúng số mười vạn đồng đã làm kinh động cả xã hội, mà trước tiên là những người trong gia đình anh ta. Một cuộc đảo lộn ngôi thứ diễn ra một cách chóng vánh khiến người ta không thể không cân nhắc, đắn đo cách cư xử. Đây là những suy tính như thế của mẹ và vợ Phúc : “(...) Sau khi thấy cụ Phán ông bị mắng, người mẹ, người vợ càng hiểu rõ rằng từ nay ắt phải rất thận trọng trong sự thay đổi thái độ, phải làm thế nào cho cái khinh bỉ ngày trước với cái quý trọng bây giờ có được một cái cầu nó nối liền một cách kín đáo, cũng như mầu xám là cần cho sự dịu dàng của việc dung hợp trắng và đen, ấy thế mới khó, vì nhỡ ra thì có thể chỉ sai một li mà đi một dặm. Quý trọng, ừ thì quý trọng, nhưng phải ra sao cho khỏi mang tiếng nịnh thần? Vừa phải thôi ư, thì làm thế nào cho khỏi bị buộc là khinh nhờn như trước? Đó là sự gánh vác đàn bà khó lắm thay!” Trong đoạn lời này có sự tranh luận ngầm giữa ý thức của hai người đàn bà với ý thức của người đời (Quý trọng, ừ thì quý trọng, nhưng phải ra sao cho khỏi mang tiếng nịnh thần?), với ý thức của Phúc (Vừa phải thôi ư, thì làm thế nào cho khỏi bị buộc là khinh nhờn như trước?). Ở đây, lời là của người kể, nhưng ý thức và chủ thể lời nói vừa thuộc về mẹ Phúc, vừa thuộc về vợ Phúc và một người khác hàm ẩn. Cho nên, lời văn vừa mang âm sắc của tiếng cười mỉm báng bổ, vừa ẩn chứa nhiều “nỗi niềm” của nhân vật. Có thể tìm thấy khá nhiều đoạn có tính chất tranh luận như thế trong Lấy nhau vì tình (đoạn Liêm tự tranh luận với mình với ý thức của Quỳnh), trong Giông tố (tiêu biểu NGUYỄN MẠNH QUỲNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 33 là các đoạn Mịch, Long tự vấn trong sự khủng hoảng tột độ sau vụ “dâm biến” của nghị Hách), trong Làm đĩ (đoạn độc thoại nội tâm của Huyền sau khi thất tiết với Lưu, khi bị chồng phát giác ngoại tình). Chính những “vi đối thoại” như thế đã góp phần không nhỏ giúp nhà văn len lỏi, mổ xẻ những nỗi niềm sâu kín, những uẩn khúc, giằng co, cắn xé trong tâm lí con người. Chiều sâu trong tâm hồn nhân vật được nâng cao thêm một bước. 3. Kết luận Tóm tại, những đóng góp của Vũ Trọng Phụng cho nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồi đầu thế kỷ XX, đặc biệt là ở phương diện thi pháp lời văn nghệ thuật, là rất to lớn, thể hiện năng lực tìm tòi và sáng tạo có tính chất đột phá của một tài năng tiểu thuyết xuất sắc. Hiện thực - trào phúng là nguyên tắc chủ đạo trong việc tổ chức lời văn trong các sáng tác của Vũ Trọng Phụng, đặc biệt là trong các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông. Nguyên tắc này, như đã phân tích, được thể hiện trên tất cả các cấp độ, từ cấp độ nhãn quan ngôn từ tiểu thuyết, đến cấp độ ngôn ngữ và cấp độ hình thức nghệ thuật của lời văn, tạo ra một giọng văn, một phong cách nghệ thuật độc đáo trên văn đàn. Khó có thể hình dung diện mạo của văn xuôi hiện đại Việt Nam đầu thế kỉ trước mà khuyết vắng khuôn mặt của Thiên Hư Vũ Trọng Phụng. Nhà văn chỉ sống có 27 tuổi đời ấy, bằng những nỗ lực sáng tạo của mình đã làm không ít bạn văn phải khâm phục, ngưỡng mộ, cả trước kia, hôm nay và mai sau. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bakhtin, M. (1992). Lý luận và thi pháp tiểu thuyết. Người dịch: Phạm Vĩnh Cư. Hà Nội: Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản. Diệp Quang Ban (chủ biên). (2000). Ngữ pháp tiếng Việt. Hà Nội: NXB Giáo dục. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên). (1992). Từ điển thuật ngữ văn học. Hà Nội: NXB Văn học. Phương Lựu (chủ biên) Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam. (1997). Lý luận văn học (tái bản). Hà Nội: NXB Giáo dục. Vũ Trọng Phụng. (1998). Toàn tập. Hà Nội: NXB Hội nhà văn. Trần Đình Sử. (1998). Giáo trình dẫn luận thi pháp học. Hà Nội: NXB Giáo dục. Nguyễn Ngọc Thiện, Hà Công Tài. (2000). Vũ Trọng Phụng về tác gia và tác phẩm. Hà Nội: NXB Giáo dục. Ngày nhận bài: 20/02/2019 Biên tập xong: 15/3/2019 Duyệt đăng: 20/3/2019
File đính kèm:
- may_dac_sac_thi_phap_loi_van_nghe_thuat_trong_sang_tac_cua_v.pdf