Hoàn thiện việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo tại kiểm toán nhà nước
Công tác tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý, là một biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật. Trong những năm qua, Kiểm toán nhà nước (KTNN) luôn quan tâm đến công tác này nên công tác tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong công tác tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo của KTNN hiện vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế. Vì vậy, để việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo của KTNN được hoàn thiện hơn, tác giả bài viết đi sâu vào phân tích thực trạng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ngành để chỉ ra những tồn tại, hạn chế, từ đó đề ra các giải pháp đồng bộ, giúp cho việc thực hiện công tác tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo của KTNN ngày càng được tốt hơn
cơ quan nhà nước lại thiếu thống nhất trong việc chấm dứt, từ chối không thụ lý giải quyết, nên vụ việc kéo dài, gây lãng phí thời gian, công sức của cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó, một trong những lý do của khiếu nại không có điểm dừng, nhất là khiếu nại về đất đai, đền bù, giải phóng mặt bằng, do chính sách áp dụng trong giải quyết lần đầu và các lần tiếp theo thiếu nhất quán, nên không được sự đồng tình của nhân dân, khiếu nại kéo dài. Vì vậy, cần nghiên cứu một cơ chế riêng để giải quyết khiếu nại về đền bù, giải phóng mặt bằng, chính sách đất đai. - Về tổ chức đối thoại lần hai Luật Khiếu nại quy định người giải quyết khiếu nại lần hai có nghĩa vụ “Tổ chức đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan”. Nhưng tại điểm a, khoản 1, Điều 21 Thông tư 07/2013/TT-TTCP của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính (Thông tư 07/2013/TT-TTCP) quy định: “Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần hai, người giải quyết khiếu nại hoặc người có trách nhiệm xác minh tổ chức đối thoại...” Quy định của Thông tư 07/2013/TT-TTCP về mở rộng chủ thể có trách nhiệm đối thoại (tức là bổ sung cả “người có trách nhiệm xác minh”) đã tháo gỡ được một phần khó khăn thực tế hiện nay vì phần lớn các vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tổng KTNN nên việc Tổng KTNN phải trực tiếp đối thoại khi giải quyết khiếu nại (lần hai) là rất khó thực hiện. Tuy nhiên, quy định tại Thông tư 07/2013/TT-TTCP lại không phù hợp, đúng tinh thần của Luật Khiếu nại quy định về trách nhiệm của người giải quyết khiếu nại trong việc đối thoại với người khiếu nại. Hiện tại, Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư số 02/2016/TT-TTCP sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 07/2013/TT-TTCP quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính (Thông tư số 02/2016/TT-TTCP) - Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 05/12/2016. Theo đó, Thông tư 02/2016/TT-TTCP quy định về tổ chức đối thoại như sau: “Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần hai, người giải quyết khiếu nại phải TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN46 Số 133 - tháng 11/2018 tiến hành đối thoại”. Như trên đã phân tích, quy định này về nguyên tắc phù hợp với Luật Khiếu nại nhưng lại chưa phù hợp với thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại. Về lâu dài, để tháo gỡ khó khăn từ thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, đồng thời vẫn bảo đảm tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong giải quyết khiếu nại, Luật Khiếu nại và các văn bản hướng dẫn thì hành nên quy định theo hướng: Người giải quyết khiếu nại được uỷ quyền cho cấp phó của mình tiến hành đối thoại. Quy định này đảm bảo tính linh hoạt trong hoạt động quản lý hành chính, không ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết khiếu nại, đồng thời phù hợp với Luật tố tụng hành chính 2015 là cho phép người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị được uỷ quyền cho cấp phó của mình làm người đại diện trong trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức. (vii) Luật Tố cáo còn một số điểm cần phải làm rõ để việc áp dụng trong thực tiễn được phù hợp, khả thi, cụ thể: Tại khoản 2, Điều 14 Luật Tố cáo có quy định: “Tổng Kiểm toán nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Kiểm toán trưởng, Phó Kiểm toán trưởng Kiểm toán nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán nhà nước khu vực và công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp. Kiểm toán trưởng Kiểm toán nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán nhà nước khu vực có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp”. Tuy nhiên, tại điểm b, khoản 1 Điều 10 Quyết định số 1786/QĐ-KTNN ngày 01/11/2016 của Tổng KTNN ban hành Quy định về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm các ngạch Kiểm toán viên nhà nước (Quyết định số 1786/ QĐ-KTNN) quy định: “Tổng KTNN quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm các ngạch Kiểm toán viên nhà nước đối với công chức Kiểm toán nhà nước”. Bên cạnh đó, theo quy định tại Quyết định số 1294/ QĐ-KTNN ngày 25/7/2016 của Tổng KTNN ban hành Quy định về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức và miễn nhiệm công chức, viên chức lãnh đạo của Kiểm toán nhà nước (Quyết định số 1294/ QĐ-KTN) thì Tổng KTNN cũng là người quyết định bổ nhiệm công chức, viên chức lãnh đạo của KTNN (trừ các Phó Tổng KTNN thì thực hiện theo các quy chế, quy định về quản lý cán bộ, về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo của Đảng và Nhà nước). Như vậy, Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực không có quyền bổ nhiệm công chức. Do đó, nếu không làm rõ cụm từ “công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp” (tại khoản 2, Điều 14 Luật Tố cáo) thì sẽ gây khó khăn rất lớn trong quá trình tiếp nhận, xử lý và giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền của KTNN. Đề xuất các giải pháp pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác tiếp nhận, giải quyết đơn của kTNN Để khắc phục các tồn tại, hạn chế trong Quy trình 161 và trong công tác tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời gian qua của KTNN, tác giả đề xuất một số giải pháp chính như sau: (i) Đề nghị tiến hành việc sửa đổi, bổ sung Quy trình 161 để đảm bảo phù hợp với thực tế. Sau đó, tổ chức phổ biến, tập huấn Quy trình 161 (đã được sửa đổi, bổ sung) trong toàn ngành để các đơn vị trực thuộc KTNN nắm rõ và thực hiện đúng, kịp thời trong công tác tiếp nhận giải quyết khiếu nại, tố cáo. (ii) Đề nghị Tổng KTNN cho phép thực hiện phương pháp quản lý, điều hành việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo tại KTNN như sau: - Giao cho Thanh tra KTNN chủ trì trong công tác tham mưu giúp Tổng KTNN quản lý, điều hành việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo tại KTNN; - KTNN sẽ thiết kế một hòm thư điện tử nóng (email nóng) giao cho Phó Tổng KTNN phụ trách giải quyết đơn thư và Thanh tra KTNN quản lý. Email nóng này có nhiệm vụ tiếp nhận nhanh nhất các đơn thư gửi tới KTNN theo cách: + Nếu là các đơn thư gửi tới các đơn vị trực thuộc KTNN (không phải là Thanh tra KTNN, Văn phòng KTNN): Ngay sau khi nhận được đơn thư, NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 47Số 133 - tháng 11/2018 các đơn vị này có trách nhiệm chụp ảnh, scan đơn thư và toàn bộ tài liệu kèm theo đơn thư để gửi về email nóng, đồng thời, điện thoại hoặc nhắn tin ngay để Phó Tổng KTNN phụ trách giải quyết đơn thư và Thanh tra KTNN biết việc đơn vị vừa gửi đơn thư vào email nóng; + Nếu là các đơn thư gửi tới Thanh tra KTNN, Văn phòng KTNN thì hai đơn vị này có trách nhiệm báo cáo ngay tới lãnh đạo KTNN để xử lý kịp thời. - Ngay sau khi Thanh tra KTNN nhận được đơn thư qua email nóng, Thanh tra KTNN có trách nhiệm báo cáo và tham mưu tới lãnh đạo về phương án xử lý ban đầu đối với đơn thư nhận được. Sau đó, trên cơ sở chỉ đạo của lãnh đạo KTNN phải liên hệ ngay với các đơn vị trực thuộc đã gửi đơn vào email nóng để tiến hành trao đổi, tư vấn các bước tiếp nhận, xử lý, giải quyết đơn thư theo quy định. (iii) Đề nghị Tổng KTNN cho phép tiến hành hoàn thiện tổ chức, bộ máy, đảm bảo về nhân sự trong việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Kiểm toán nhà nước, cụ thể: Bổ sung cho Thanh tra KTNN từ 2 đến 3 công chức có kinh nghiệm, năng lực về giải quyết đơn thư; Ngoài Thanh tra KTNN, mỗi đơn vị trực thuộc KTNN nên bố trí 01 công chức (ở Văn phòng hoặc Phòng Tổng hợp) được giao nhiệm vụ thường xuyên về tham mưu giải quyết đơn thư giúp thủ trưởng đơn vị; (iv) Thường xuyên tổ chức tập huấn, trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ về tiếp nhận, xử lý và giải quyết đơn thư đối với các công chức, người có liên quan tại các đơn vị trực thuộc KTNN. Thông qua bài viết, tác giả bước đầu đã đánh giá được thực trạng, chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong công tác tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo tại KTNN, đồng thời, cũng đề xuất một số giải pháp để Lãnh đạo KTNN có một góc nhìn toàn diện hơn về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ngành và có những điều chỉnh kịp thời giúp cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ngành ngày càng được hoàn thiện và hiệu quả hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Kiểm toán nhà nước, Chiến lược phát triển Kiểm toán nhà nước đến năm 2020, năm 2010; 2. Kiểm toán nhà nước, Kế hoạch Chiến lược phát triển Kiểm toán nhà nước đến năm 2013-2017, năm 2013; 3. Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015; 4. Luật Khiếu nại năm 2011; 5. Luật Tố cáo năm 2011; 6. Luật Tiếp công dân năm 2013; 7. Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại; 8. Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo; 9. Thông tư số 06/2013/TT-TTCP ngày 30/9/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết tố cáo; 10. Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính; 11. Thông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh; 12. Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 1994; 13. Từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2002; 14. Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Thông báo số 130-TB/TW ngày 10/01/2008 của Bộ Chính trị về giải quyết khiếu nại, tố cáo; 15. Báo cáo số 984/BC-UBTVQH13 ngày 05/11/2015 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội; 16. Báo cáo số 2804/BC-UBPL13 ngày 14/11/2014 của Uỷ ban Pháp luật về kết quả giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước.
File đính kèm:
- hoan_thien_viec_tiep_nhan_giai_quyet_khieu_nai_to_cao_tai_ki.pdf